Phần do hạn chế trong việc theo dõi các tin tức khi vụ án đang diễn tiến, phần do eo hẹp về thời gian, phương tiện cùng những hiểu biết ít ỏi về thủ tục tố tụng tại tòa án, nên phần đông người Việt đã không hiểu thấu đáo vụ án. Điều này đã dẫn đến những thắc mắc, những băn khoăn của độc giả đối với tiến trình thực thi công lý của tòa. Để có thể giải quyết phần nào những thắc mắc, những băn khoăn của qúy độc giả, kể từ số báo 238, Sàigòn Times bắt đầu loạt bài "Mở Lại Hồ Sơ Xét Xử Vụ Án John Newman". Sau đây là phần ba của Kỳ một, Cảnh sát đã phát hiện khẩu súng 1935 .32 calibre Beretta ở sông George như thế nào và làm sao công tố viện có thể chứng minh khẩu súng đó đã bắn John Newman.
*
Trong hai số báo trước, tôi đã trình bầy một số điểm, mà theo lời của trạng sư công tố Tedeschi, nhờ đó cảnh sát đã phát hiện ra sự hiện diện của ông Phương bên bờ sông George vào thời điểm xảy ra vụ án mạng. Nhờ vậy, cảnh sát mới nghi ngờ ông Phương giấu diếm tang vật ở một vùng nào đó dưới sông George. Kết quả, cảnh sát đã tìm thấy khẩu súng 1935 .32 calibre Beretta dưới lòng sông. Tuy trạng sư công tố viện Tedeschi xác nhận trước tòa, khẩu súng 1935 .32 calibre Beretta đã nằm trong lòng sông tới ngót 4 năm, khiến nó đã rỉ sét, nhưng bên công tố viện vẫn có cách chứng minh để bồi thẩm đoàn tin tưởng đó là khẩu súng hung thủ đã dùng để bắn John Newman trước sau 4 phát đạn. Vậy trạng sư công tố Tedeschi đã chứng minh điều này như thế nào"
Khi trình bầy tại tòa, trạng sư công tố viện đã có sơ đồ khẩu súng 1935 .32 calibre Beretta. Vì vậy, ông đã cho bồi thẩm đoàn biết, khi cảnh sát tìm thấy khẩu súng 1935 .32 calibre Beretta vào năm 1988, các chuyên viên về đạn đạo đã áp dụng một loạt thí nghiệm cần thiết để có thể biết chắc khẩu súng 1935 .32 calibre Beretta là khẩu súng hung thủ đã dùng.
Để có thể giải thích về tiến trình xét nghiệm của các chuyên viên giảo nghiệm đạn đạo, trạng sư công tố viện Tedeschi đã trình bầy trước hết về viên đạn. Ông cho bồi thẩm đoàn biết, mỗi viên đạn gồm có 3 phần chính. Phần thứ nhất là đầu đạn, tức là vật được bắn ra khỏi nòng súng, và có thể trúng vô mục tiêu. Phần thứ hai là vỏ đạn, trong có chứa thuốc súng. Và phần thứ ba là hạt nổ. Một khi cò súng được bóp, kim hỏa sẽ mổ vô hạt nổ, khiến hạt nổ nổ, xẹt ra tia lửa, đốt cháy thuốc súng. Khi thuốc súng bốc cháy sẽ tạo nên một áp suất cực lớn, đẩy đầu đạn ra khỏi nòng súng với tốc độ thật cao. Nhờ vậy đầu đạn có thể bay xa vài trăm thước và khi trúng mục tiêu, nó đủ sức xuyên phá, gây tử vong, thương vong cho người và vật.
Sau khi trình bầy về viên đạn, trạng sư công tố giải thích về cấu tạo của khẩu súng ngắn. Theo ông, bất cứ súng trường hay súng ngắn, đều có một bộ phận quan trọng là kim hỏa. Kim hỏa là một bộ phận bằng thép gắn liền với cò súng. Khi một người bóp cò súng, kim hỏa sẽ mổ về phía trước, đập trúng hạt nổ nằm giữa và dưới đáy viên đạn. Một số loại súng ngắn, người bắn phải kéo kim hỏa về phía sau rồi mới bóp cò. Với những loại súng tự động hoặc bán tự động, khi viên đạn nổ, tạo nên một sức giật khiến kim hỏa tự động giật ngược trở lại, sẵn sàng ở vị trí mổ về phía trước khi người sử dụng bóp cò súng.
Mặc dù toàn bộ quá trình bóp cò, kim hỏa mổ về phía trước, hạt nổ nổ, đốt cháy thuốc súng, tạo nên áp suất cực lớn, thổi đầu đạn bay về phía trước... là một quá trình xảy ra trong chớp nhoáng phần ngàn giây đồng hồ, nhưng mỗi bộ phận trong khẩu súng đều để lại những đặc điểm hay những "dấu vết" nhất định, khiến khẩu súng này không thể giống khẩu súng kia.
Nói một cách cụ thể, khi kim hỏa của một khẩu súng đập vô hạt nổ phía đáy một viên đạn, nó luôn luôn để lại dấu vết đặc biệt của nó, giống như vân tay của một người để lại trên bàn, ghế, ly chén... Ngoài ra, một khi các chuyên viên hình sự đặc biệt về vũ khí, coi các vết tích để lại trên vỏ đạn được phóng to qua kính hiển vi điện tử, họ có thể biết chắc, vỏ đạn đó được bắn từ loại súng nào, súng đó được sản xuất vào năm nào.
Như vậy, một khi cảnh sát có được những vỏ đạn nằm rải rác tại hiện trường, nơi ông John Newman bị ám sát, lập tức các vỏ đạn đó được trao cho các chuyên viên về đạn đạo. Một trong những thám tử cảnh sát chuyên viên về vũ khí là thám tử North thuộc Phòng Đạn Đạo NSW (NSW Ballistics Unit). Viên thám tử này đã nhận được cả 4 vỏ đạn tìm thấy tại hiện trường. Nhìn vào dấu vết kim hỏa để lại tại hạt nổ dưới đít 4 vỏ đạn, thám tử North thấy đó là những dấu vết "bất bình thường". Vì vậy, viên thám tử North đã không thể biết được bốn vỏ đạn đó đã được bắn ra từ loại súng nào.
Ngạc nhiên trước những dấu vết quái lạ, bất bình thường của 4 vỏ đạn, đồng thời nhận ra những hạn chế của mình, thám tử North liền quyết định đăng quảng cáo trên một tạp chí chuyên môn về súng. Trong phần quảng cáo, ông cũng trình bầy tỷ mỷ những điểm lạ lùng ông đã phát hiện trên 4 vỏ đạn. Không lâu sau, thám tử North nhận được tin của một tay chuyên chơi súng. Tay này cho biết, có thể 4 vỏ đạn đó đã được bắn ra từ một khẩu súng có tên 1935 .32 calibre Beretta.
Như trong những số báo trước tôi đã trình bầy, trạng sư công tố Tedeschi đã nhận định, súng 1935 .32 calibre Beretta là một loại súng do Ý chế tạo, nhưng cực kỳ hiếm hoi ở Úc (extremely rare in Australia). Hiếm hoi đến độ tại NSW Ballistics Unit có cả một kho súng đủ loại trên thế giới để thử nghiệm, vậy mà cũng không tìm thấy được một khẩu súng 1935 .32 calibre Beretta.
Nhưng nếu chỉ có thám tử North quả quyết bốn viên đạn đó bắn ra từ súng 1935 .32 calibre Beretta thì điều đó khó có thể thuyết phục bồi thẩm đoàn hoàn toàn tin tưởng vào bằng chứng của công tố viện. Vì vậy, trạng sư công tố Tedeschi cho biết, không lâu sau, một chuyên viên về vũ khí nữa là thám tử Roach, lúc đó đang là trưởng phòng NSW Ballistics Unit, cũng đã nghiên cứu kỹ càng 4 viên vỏ đạn và đi đến kết luận, quả thực, chúng được bắn từ súng 1935 .32 calibre Beretta.
Theo lời của công tố Tedeschi tại tòa, thì, cả thám tử North và thám tử Roach đều đi đến những kết luận trên trước khi cảnh sát tìm thấy khẩu súng 1935 .32 calibre Beretta dưới lòng sông George. Hiển nhiên, đây là những yếu tố vô cùng quan trọng, thuyết phục bồi thẩm đoàn tin tưởng vào bằng cớ của bên công tố viện đưa ra.
Qúy độc giả nên nhớ, ở đây có 3 yếu tố quan trọng. Một, chỉ căn cứ vào 4 vỏ đạn, hai viên thám tử nhà nghề về vũ khí của cảnh sát NSW đã cùng kết luận, hung thủ dùng súng 1935 .32 calibre Beretta. Hai, súng 1935 .32 calibre Beretta là một loại súng vô cùng hiếm hoi tại Úc. Ba, khi cảnh sát vớt được khẩu súng từ dưới lòng sông George lên, lúc đó cảnh sát mới biết, đó là khẩu súng 1935 .32 calibre Beretta.
Ba điểm quan trọng trên tuy có giá trị, nhưng trạng sư công tố Tedeschi còn đi xa hơn thế, khi ông cho biết, vì nòng súng 1935 .32 calibre Beretta được vớt từ sông George đã quá rỉ sét nên không thể bắn thử để so sánh dấu vết của khương tuyến để lại trên đầu đạn. Để giải quyết bế tắc này, cảnh sát liền đi đến một biện pháp khác. Các chuyên viên giảo nghiệm hình sự liền tháo kim hỏa của khẩu 1935 .32 calibre Beretta tìm thấy dưới sông George, đem lắp vô một khẩu 1935 .32 calibre Beretta khác, rồi đem bắn. Sau đó, họ lấy những vỏ đạn đã bắn đó so sánh với 4 vỏ đạn tìm thấy tại hiện trường.
Theo lời trình bầy của công tố viện, thì việc so sánh này không phải được làm ở NSW mà được làm tại Tasmania. Tại đó, sau khi so sánh, các chuyên viên đạn đạo thừa nhận, 4 vỏ đạn tìm thấy tại nhà John Newman, quả thực đã được bắn từ khẩu súng 1935 .32 calibre Beretta tìm thấy dưới sông George.
Như vậy vẫn chưa đủ. Trạng sư công tố còn cho biết, sau đó, tất cả những vỏ đạn đó được gửi sang phòng giảo nghiệm vũ khí hình sự của cộng hòa liên bang Đức. Lý do là, theo lời trạng sư công tố viện, tại Đức, có những phương tiện hiện đại trong lĩnh vực giảo nghiệm vũ khí mà tại Úc, chúng ta không có.
(Còn tiếp...)