Toàn văn ghi như sau:
"Phật lịch 2545, Jan 21, 2002
Kính gửi Chư Tôn Trưởng Lão,
Toàn thể Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước
Xin kính cẩn báo tin đến Chư Tôn Đức, Chư Tăng, Ni cùng Phật Tử, Hòa Thượng Thích Đức Nhuận, nguyên Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống, hiện Cố Vấn Ban Chỉ Đạo của Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất, vừa viên tịch lúc 16 giờ 53 phút, ngày 21 tháng giêng 2002, nhằm ngày mùng 9 tháng 12 năm Tân Tỵ, Phật lịch 2545. Nhục thân của Hòa Thượng đang được quàn tại phòng khách riêng của Hòa Thượng tại Chùa Giác Minh.
Chúng tôi sẽ có bản tin riêng về những giờ phút cuối cùng của Hòa Thượng, và sự hộ niệm của Chư Tăng Ni tiễn biệt Hòa Thượng xả báo thân, trở về với Chân thân thường trụ.
Kính báo,
Người học trò của Hòa Thượng,
Thích Tuệ Sỹ."
Trong khi đó, Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế từ Paris loan tin như sau:
"Hòa thượng Thích Đức Nhuận, Cố vấn Chỉ đạo Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, vừa viên tịch tại chùa Giác Minh ở Saigon vào lúc 16 giờ 45 ngày 21.1.2002, tức mồng 9 tháng 11 Tân Tỵ, hưởng thọ 79 tuổi. Vào lúc 13 giờ trưa Hòa thượng mệt nặng gần như bất tỉnh, được chở vào Đại học Y Dược cấp cứu, nhưng theo bác sĩ cho biết vì chứng nhồi máu cơ tim nên Hòa thượng không qua khỏi. Gần hai tháng trước, Hòa thượng lâm trọng bệnh phải đưa vào bệnh viện Thống Nhất (Vì Dân cũ) điều trị, sau đó có phần thuyên giảm nên đã trở về chùa Giác Minh, nơi Hòa thượng cư ngụ và cũng là nơi bị quản chế kể từ chuyến đi không thành của Phái đoàn Viện Hóa Đạo nhằm ra Quảng Ngãi rước Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang về Saigon chữa bệnh hồi đầu tháng 6â.2001, do nhà cầm quyền cộng sản ngăn cấm và đàn áp.
Hòa thượng Thích Đức Nhuận, tự Trí Tạng, thế danh Đồng Văn Kha, sinh ngày 14 tháng Chạp âm lịch Quý Hợi (19.1.1924), chánh quán làng Lạc Chính, xã Duyên Bình, huyện Trực Ninh, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Xuất gia năm 13 tuổi với Hòa thượng Thích Tâm Thưởng tại chùa làng Hải Liên, phủ Nghĩa Hưng, thuộc sơn môn Tổ đình Phú Ninh ở Nam Định. Hòa thượng thọ Sa di năm 1940 và thọ đại giới Tỳ kheo năm 1943.
Trước năm 1975, Hòa thượng từng giữ các chức vụ : Chủ tịch Giáo hội Tăng già Bắc Việt tại Miền Nam, rồi Chánh Thư ký Viện Tăng Thống, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Chủ nhiệm Tạp chí Vạn Hạnh dùng tiêu ngôn "Một Đạo Phật sinh động trong một Dân tộc Việt Nam Phục hưng" làm tôn chỉ. Những trước tác của Hòa thượng gồm có : Gió thiêng (thơ, 1953), Phật học tinh hoa (1960), Chuyển hiện đạo Phật vào thời đại (1967), Trao cho thời đại một nội dung Phật chất (1969), Sứ mệnh người Phật tử đối với Dân tộc và Đạo pháp (1995), Kiến thiết Văn minh Phật giáo (1995), Đạo Phật và dòng sử Việt (1998), Sáng một niềm tin (thơ, 1998), Khái luận Triết lý kinh Hoa Nghiêm (2000), Những điều Phật dạy (dịch kinh Tứ thập nhị chương), Lời dạy cuối cùng của đức Phật (dịch kinh Thùy Bát Niết bàn lược thuyết giáo giới).
Trong hai năm 1984, 1985, qua đợt đàn áp Tăng Ni và Phật tử thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Hòa thượng Thích Đức Nhuận bị bắt chung với các Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát), Thích Nguyên Giác, Thích Chơn Nguyên, Sư bà Thích Nữ Trí Hải, Sư cô Thích Như Minh, các Cư sĩ Phan Văn Ty, Tôn Thất Kỳ, Lê Đăng Pha, Hoàng Văn Cường, Ngô Văn Bạch, v.v... Đến ngày 30.9.1988, toàn thể 21ù người bị bắt mới đem ra xét xử trong một phiên tòa trá hình tại Saigon. Vụ án đã gây phẫn nộ và phản đối trong dư luận thế giới với hai án tử hình dành cho hai Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát), hai án chung thân cho hai Cư sĩ Phan Văn Ty và Tôn Thất Kỳ... Hòa thượng Thích Đức Nhuận bị kết án 10 năm tù, các vị khác bị từ 4 đến 15 năm tù. Báo Saigon Giải phóng số ra ngày 1.10.1988 đã phải thán lên tính vô úy và hùng khí của ba vị Tăng sĩ Phật giáo khi viết: "Phạm Văn Thương (tức Tuệ Sỹ), Lê Mạnh Thát (tức Trí Siêu) và Đồng Văn Kha (tức Đức Nhuận) vẫn ngoan cố không nhận tội". Do áp lực quốc tế và cuộc vận động của người Việt hải ngoại, ngày 15.11.88 Hà Nội đã phải xử phúc thẩm để giảm hai án tử hình xuống 20 năm tù, hai án chung thân xuống 18 và 16 năm tù... Hòa thượng Thích Đức Nhuận giảm xuống 9 năm tù.
Hòa thượng được trả tự do ngày 14.1.1993. Vài tháng sau, nhân Mùa Phật đản, Hòa thượng viết bức tâm thư gửi tam vị Hòa thượng Thích Trí Tịnh, Thích Thiện Siêu, Thích Minh Châu để nói lên nỗi niềm Phật giáo trước thời cuộc. Ba vị đều thuộc hàng giáo phẩm cao cấp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trước năm 1975, nhưng nay phục vụ cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam của Nhà nước cộng sản. Hòa thượng Đức Nhuận viết : "... Trong thời nước ta bị đô hộ, kẻ đô hộ đã tìm mọi cách để tách rời Phật giáo ra khỏi đại khối dân chúng. Họ (kẻ đô hộ) hiểu rõ rằng : vào các mùa Tự chủ của dân tộc, những tín hiệu tập họp dân chúng thường đã được phát ra từ dưới mái chùa cổ đơn sơ, nơi những người Tăng sĩ áo vải hiền lành.
(...) Miền Nam sụp đổ, nhiều nhà lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị tù đày, bị cô lập, nhiều tự viện và các cơ sở văn hóa, xã hội bị tịch thu. Ngôi Việt Nam Quốc tự tại Saigon bị san bằng và được thay thế vào đó là một tụ điểm ăn chơi giải trí khổng lồ, còn lại chăng chỉ là một ngôi tháp chưa xây xong đứng cô đơn lạc lõng !
"Đây là một niềm đau nhức nhối đối với toàn khối Phật tử Việt Nam. Nhưng một niềm đau lớn nhất phải kể đến việc quỳ Hòa thượng đứng ra lập lên một giáo hội mới. Thực tế giáo hội đó chẳng những không có tính cách pháp nhân của một tôn giáo lớn như Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, lại cũng chẳng được hưởng quy chế Hiệp hội như thời thực dân, mà nó chỉ còn là một tổ chức có tính cách nằm trong hiệp hội, đó là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
"Đau xót biết bao khi Phật giáo Việt Nam từ con lạch nhỏ đã vùng thoát ra được đại dương, thì nay quý Hòa thượng lại tự bước vào một vũng ao tù".
Dù bệnh yếu triền miên, nhưng khi nghe tin Huynh trưởng Gia Đình Phật tử Việt Nam Hồ Tấn Anh vị pháp thiêu thân ngày 2.9.2001, Hòa thượng liền viết thư gửi các vị lãnh đạo Đảng Cộng sản và Nhà cầm quyền Hà Nội. Thư đề ngày 4.9.2001, và đó là bản văn cuối cùng của Hòa thượng Thích Đức Nhuận."
Ngoài ra, Bản Tiểu Sử của HT Đức Nhuận do Thượng Tọa Nguyên Tạng phổ biến có các chi tiết sau:
"THÂN THẾ :
Thiền sư THÍCH ĐỨC NHUẬN, pháp hiệu Trí Tạng, thế danh Đồng Văn Kha, sinh ngày 14 tháng Chạp năm Quí hợi (thứ bảy, ngày 19 tháng giêng, 1924).
Chính quán : làng Lạc Chính, xã Duyên Bình, huyện Trực Ninh, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Thân phụ là Đồng Văn Trung và thân mẫu là bà chính thất Hà Thị Thìn hiệu Trinh Thục (cả hai vị đều đã mãn phần).
Là con thứ tư trong một gia đình thanh bần - dòng quí tộc. Ngài có 2 anh, 1 chị và 3 người em dị bào (2 trai, 1 gái).
XUẤT GIA :
"Xuất gia năm 1937 (do nhân duyên đọc báo Đuốc Tuệ mà giác ngộ). Y chỉ sư là Hòa thượng Thích (thượng) TÂM (hạ) THƯỞNG, trụ trì chùa làng Liêu-Hải, phủ Nghĩa Hưng, thuộc Sơn môn Phú Ninh (Nam Định).
Năm 1941, thụ Sa di giới tại chùa Cổ Lễ, huyện Trực Ninh.
Năm 1943, thụ đại giới Tỳ Khưu tại giới đàn Tổ đình Phú Ninh. Đã học tại các Tùng Lâm :
- Tổ đình Phú Ninh
- Phật học viện chùa Cồn (Nam Ịịnh)
- Tổ đình Tế Xuyên (Hà Nam)
- Phật học viện Báo Quốc (Huế)
- Phật học đường Ấn Quang (Sài Gòn)
ĐẠO NGHIỆP :
Năm 1949, chính thức hoạt động Phật sự với chức vụ phó chủ tịch Hội Phật Giáo Nam Ịịnh (Miền Xuân Trường Hải Hậu); chủ tịch là Hòa thượng THÍCH TRUNG QUÁN, trụ trì chùa làng Quần Thượng (Hải Hậu) và cuối năm 1950, xin từ chức trở về sống nếp sống của một tăng sĩ, tiếp tục sự nghiệp học vấn và nghiên cứu Phật học.
Đầu năm 1954 vào Nam sống cuộc đời tĩnh tu.
Năm 1956-57, được sự tín nhiệm của chư Tăng cử giữ chức chủ tịch (Trị sự trưởng) giáo hội Tăng Già Bắc Việt tại Miền Nam (GHTGVN).
Năm 1959-61, giữ chức ủy viên văn hóa Tổng hội Phật giáo Việt Nam.
Năm 1960-61, tái nhận chức chủ tịch GHTGBV tại Miền Nam.
Năm 1962-63, đảm nhận chức tổng thư ký giáo hội Tăng Già Việt Nam.
Năm 1963, khởi động phong trào đầu tiên chống chế độ độc tài nhà Ngô (tại Sài Gòn) trong vụ triệt hạ cờ Phật Giáo và đàn áp Phật tử tại Huế, nhân mùa Phật Ịản PL 1507 (1963).
Năm 1964-65, giữ chức vụ trưởng Vụ kiểm duyệt GHPGVNTN.
Năm 1965-66, chủ nhiệm kiêm chủ bút nguyệt san Vạn Hạnh, tạp chí nghiên cứu, phát huy Văn hóa Phật giáo và văn hóa Dân tộc, với sự cộng tác của một số học giả, giáo sư đại học, văn nghệ sĩ tại thủ đô Sài Gòn (tạp chí xuất bản được tròn 2 năm, 24 số).
Năm 1969-70, giáo sư Phân khoa Phật học và Triết học Đông phương Viện Ịại học Vạn Hạnh (sau niên khóa đó, vì bận công việc nên đã xin nghỉ dạy).
Năm 1967-73, giữ chức chánh thư ký viện Tăng Thống, do đức Tăng Thống THÍCH TỊNH KHIẾT lãnh đạo và là hội viên Hội đồng giáo phẩm trung ương GHPGVNTN.
Năm 1969-71, trùng tu tổ đình Giác Minh. Nguyên trụ sở giáo hội Tăng Già Bắc Việt tại Miền Nam.
Năm 1971-72, chủ bút nguyệt san Hóa Đạo, cơ quan truyền bá chính pháp của Tổng Hoằng pháp GHPGVNTN.
Năm 1975-81, giữ chức trụ trì tổ đình Giác Minh.
Năm 1985-93, bị Nhà nước Việt Nam bắt giam với tội danh "tổ chức chống cách mạng".
Năm 1993-đến nay (1996), tĩnh tu chùa Giác Minh, HT vẫn tiếp tục đọc, viết và ưu tư về đường hướng phát triển của Phật giáo Việt Nam.
Đã viết cho các Nhật Báo : Thời Luận, Tín Sáng, Dân Chủ, Gió Nam và các tạp chí : Phật giáo Việt Nam, Văn Hóa Á Châu, Liên Hoa, Văn, Vấn đề, Tư tưởng...
Đã diễn thuyết về đề tài Phật giáo và Văn hóa Dân tộc tại các trường Đại học :
- Trường Đại Học Văn khoa Sài Gòn (1959)
- Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn (1963)
- Viện Phật Học Vạn Hạnh (1970)
và đã đề tựa cùng giới thiệu những tác giả và tác phẩm có giá trị về mặt tôn giáo và về văn học.
* Tác phẩm đã in :
- GIÓ THIÊNG (Thơ) Vạn Hạnh, 1959
- Phật Học Tinh Hoa, Một Tổng Hợp Ịạo Lý (đã tái bản 4 lần), Vạn Hạnh, 1960.
- CHUYỂN HIỆN ĐẠO PHẬT VÀO THỜI ĐẠI, Vạn Hạnh, 1967.
-TRAO CHO THỜI ĐẠI MỘT NỘI DUNG PHẬT CHẤT (sách đã dịch ra Anh ngữ, Vạn Hạnh, 1969).
- SỨ MỆNH NGƯỜI PHẬT TỬ ĐỐI VỚI DÂN TỘC VÀ ĐẠO PHÁP
KIẾN THIẾT VĂN MINH PHẬT GIÁO
ĐẠO PHẬT VÀ DÒNG SỬ VIỆT
(ba tác phẩm này do Viện Triết Lý Việt Nam và Triết Học Thế Giới tại California, U.S.A ấn hành, 1995-1996).
-, Sài Gòn, 1997
- THƠ : Sáng một niềm tin (Dịch và sáng tác từ năm 1975 đến nay), Viện Triết Lý Việt Nam và Triết Học Thế Giới tại California, U.S.A ấn hành, 1999.
* Dịch kinh :
- NHỮNG ĐIỀU PHẬT DẠY - Phật Thuyết Tứ Thập Nhị Chương
- LỜI DẠY CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT - Thùy Bát Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh.
(Cả hai tác phẩm trên nguyên văn chữ Hán trích trong "Thánh điển Yếu Tập", Chùa Giác Minh ấn tống, 1980-1995. ký tên : Thái Không).
- KHÁI NIỆM TRIẾT LÝ KINH HOA NGHIÊM, Viện Triết Lý Việt Nam và Triết Học Thế Giới tại California, U.S.A ấn hành, 1999.
Thích Nguyên Tạng
Kính ghi"
Việt Báo thành kính chia buồn cùng Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất và cầu nguyện hương linh Hòa Thượng Đức Nhuận sớm siêu sinh Tịnh Độ.