Hôm nay,  

Hoa Kỳ Có Phải Rút Khỏi Iraq Như Nga Ơû Afghanistan?

16/09/200300:00:00(Xem: 5211)

Chưa có lúc nào Tổng thống Bush bị chỉ trích nhiều như lúc nầy về chính sách của ông ở Iraq, nhứt là nhân việc ông xin Quốc Hội cho phép ông sử dụng 87 tỷ mỹ kim để chi tiêu trong tài khóa tới ở Iraq. Nhân việc nầy, dư luận nhắc tới việc Hoa kỳ rút khỏi Việt Nam năm 1975 hay việc Liên Sô phải rút khỏi Afghanistan năm 1988. Đâu là sự thật"
Dưới đây chúng tôi xin trích dịch lại bài báo của ký giả Marc Kaufman, người đã chứng kiến việc Liên Sô rút khỏi Afghanistan năm 1988. Ông đã nói gì về việc Hoa kỳ chiếm đóng Iraq hiện nay"
(HVĐ)
Quân sĩ ngoại quốc được võ trang đầy đủ hàng ngày bị du kích quân cảm tử tấn công và các sự thiệt hại tăng lên. Phần lớn thế giới chống lại hành động quân sự và sự chống đối đó đặc biệt lên cao trong các quốc gia Hồi giáo. Các chiến sĩ của cuộc thánh chiến Hồi giáo đã được lôi cuốn vào cuộc chiến, mỗi ngày gia tăng tiền bạc và những chiến thuật cực đoan. Các lực lượng chiếm đóng tìm cách canh tân một xã hội Hồi giáo cổ điển và làm việc đó một cách nhanh chóng. Họ chưa thất một trận đánh nào, nhưng chiến tranh không phải vì thế đã chấm dứt.
Nếu điều đó giống như việc diễn tả sự thử thách mà các lực lượng Hoa Kỳ đang phải đối phó sau chiến tranh ở Iraq, thì các bạn có lý. Nhưng điều đó cũng diễn tả một trận giặc cũng trong vùng đó : cuộc xăm lược và chiếm đóng của quân đội Sô Viết ở Afghanistan trong thập niên 80.
Trong khi số người Mỹ bị thiệt mạng tăng gia ở Iraq và những cố gắng để cải thiện đời sống cho người Iraq vẫn còn hạn chế vì thiếu an ninh, chính quyền của TT Bush dã phải làm việc một cách cực nhọc để thuyết phục chúng ta rằng chúng ta đang chứng kiến cái chết của chế độ Hussein. Cố vấn an ninh Condolezza Rice và nhiều người khác nữa đã nêu cao việc chiếm đóng Nhựt bổn và Đức quốc sau Đệ Nhị thế chiến như là kiểu mẩu cho cuộc chiếm đóng hiện nay của Mỹ ở Iraq. Những người chống đối chính quyền Bush trả lời cho việc đó bằng cách nêu lên ám ảnh Việt Nam và những cuộc hành quân thất bại của Hoa kỳ ở Somalia và Lebanon.
Và kinh nghiệm của Liên Sô ở Afghanistan - nơi mà một siêu cường đã tiến chiếm một cách ồ ạt và dử dội, ngoài khu vực ảnh hưởng của mình, một quốc gia Hồi giáo - là một kiểu mẫu hữu ích, mặc dù kết cuộc và những lý do của những quốc gia chiếm đóng có thể khác nhau thế nào chăng nữa. Và vì sự chiếm đóng của Liên Sô ở Afghanistan kết thúc bằng một thảm trạng cho cả kẻ đi chiếm đóng và kẻ bị chiếm, nó phải mang lại những bài học mà những nhân vật trong chính quyền Hoa Kỳ cần phải ghi nhớ.
Tôi (ký giả Kaufman) đã có mặt tại Afghanistan khi những người Nga cuối cùng rời nơi đó năm 1988, từ bỏ những nơi đồn trú được bảo vệ một cách chặt chẽ, lo sợ bị tấn công trong khi rút lui. Lúc đó, người Sô Viết đã tìm cách tránh bất cứ những gì sai lầm nhưng cũng đã sát hại hơn một triệu người và làm cho một triệu người khác phải di tản và tị nạn. Người Sô Viết đã trở thành kẻ thù của Hồi giáo, mặc dù họ đã xài hàng tỷ bạc để canh tân Afghanistan và lôi cuốn người Afghanistan. Quân đội Liên Sô vẫn tặng kẹo cho trẻ con khi họ rút ra khỏi Kabul - nhưng việc đó chẳng có ý nghĩa gì hết cho tới khi mọi việc chấm dứt.
Hoa Kỳ đã bắt đầu việc chiếm đóng trên cơ sở một vị thế mạnh mẽ hơn. Dù sao thì Người Sô Viết đã ủng hộ một chính phủ cộng sản Afghanistan bị thù ghét, trong khi Hoa Kỳ đề nghị dân chủ và việc tái thiết, điều mà người Iraq nói rằng họ mong muốn. Cả hai (quốc gia) đều bắt đầu cuộc chiếm đóng với sự tin tưởng rằng dân chúng dịa phương ủng hộ họ hay như trong trường hợp của Liên Sô, rằng những người địa phương phải chấp nhận sự lệ thuộc. Người Sô Viết đã chứmg minh rằng họ đã lầm lẫn và người Mỹ đã học được rằng họ không thể tin tưởng vào sự ủng hộ mà họ nghĩ rằng họ có thể có được. Các sĩ quan cao cấp nhứt ở Iraq phải nhìn nhận rằng họ đang có một trận "chiến tranh du kích" phải đối phó - và các động lực tại chổ của hai cuộc chiếm đóng bắt đầu giống nhau một cách sâu rộng.
Chiến tranh du kích phải được đối phó bằng quân sự, nhưng quan trọng hơn như là một cuộc chiến để chiếm "lòng người"øø. Vì thế mà hiện nay Hoa Kỳ phải làm việc vừa bình định vừa phát triễn Iraq. Những kẻ thù của Hoa Kỳ cũng cố gắng tạo ra sự tàn phá và duy trì Iraq trong tình trạng thiếu thốn điện lực, thiếu thốn dụng cụ y tế và không có hy vọng gì có được một tương lai hòa bình với ảnh hưởng của người Mỹ. Để đạt được những mục tiêu đó, du kích quân Iraq đã theo gương các chiến sĩ du kích Afghanistan đã buộc người Nga phải rút khỏi xứ đó.
Trên phương diện chiến lược, đây là một cuộc chiến được phân chia thành 1000 khu nhỏ - một vài người bị thương nơi nầy, một vài cái chết nơi khác, và những vụ đặt bom nổ trên xe và những vụ khủng bố. Giống như những quân phản loạn Afghans chiến đấu chống người Sô Viết, các chiến sĩ Iraq cũng phá nổ các đường giây chuyển điện, tấn công những người địa phương giúp đở cho lực lượng chiếm đóng và làm cho cuộc sống của dân chúng trở nên khó khăn. Tromn một trận đánh nổi danh năm 1983 để chống lại quân đội Sô Viết, du kích quân Afghanistan đã tấn công kho xe buýt trung ương ở Kabul và phá hủy 124 xe buýt của Liên Sô cung cấp. Sau nầy người chỉ huy du kích quân ở Kabul có nói với sử gia Ali Jalali, hiện là bộ trưởng nội vụ Afghanistan:"Kabul đã không có xe buýt trong một thời gian dài".
Những sự trùng hợp cũng đã xảy ra trong phạm vi khủng bố chống thường dân. Người Hoa Kỳ có xu hướng xem việc khủng bố như là một tội ác không thể được coi nhẹ, nhưng Hoa Kỳ cũng đã ủng hộ (và đã tài trợ rộng rãi) những du kích quân tấn công thường dân Afghanistan và Liên Sô trong thời gian Liên Sô chiếm đóng Afghanistan.
Trong cuộc tranh luận sau chiến tranh ở Afghanistan của bộ tổng tham mưu Liên Sô, sau nầy được công bố, các nhà phân tích cho biết có 1.800 vụ hành động khủng bố chống lại các mục tiêu thường dân ở Afghanistan chỉ giữa những năm 1985 và 1987. Viên chỉ huy một đơn vị du kích gắn bom nổ vào những chiếc xe đẩy ở Kabul, cho nổ để sát hại thường dân Liên Sô và Afghanistan sau nầy có tuyên bố với ông Jalili rằng "cái khác nhau giữa những quả bom của tôi và những quả bom do phi cơ quân sự thả là kích thước của bom và phương tiện chuyển vận mà thôi".
Trong hai trường hợp Nga chiếm đóng Afghanistan và Hoa Kỳ chiếm đóng Iraq, những cố gắng để tái thiết và phát triển trở thành những mục tiêu được quân du kích ưa thích nhứt. Các cuộc tấn công đó đã làm thiệt hại cho quân đội Sô Viết và đang làm thiệt hại cho quân đội Hoa Kỳ. Nhiều công nhân giúp việc cho các tổ chức từ thiện từ chối không chịu sống ở Iraq, ngay cả việc không chịu đi sang đó để làm việc. Ví dụ như cơ quan Oxfam, đã lo triệt thoái nhân viên của họ, vì ông Simon Sorinhett, giám đốc điều hành cơ quan đó, tuyên bố rằng "chúng tôi không thể chấp nhận mức độ nguy hiểm đó được". Ngay Hồng Thập Tự Quốc Tế cũng đang rút lui.

Một điểm trùng hợp khác là cái lối mà người Mỹ càng bị xem như kẻ thù ở Iraq. Hiện nay quân sĩ Mỹ thường bị tấn công, các báo cáo từ Baghdad cho biết rằng các binh sĩ bị bắn, hốt hoảng phản ứng lại ngay tức khắc, và thường là các thường dân vô tội phải trả cái giá cho việc đó - một tình thế không làm cho các lực lượng Mỹ được quý trọng đối với người Iraq. Ông Milt Bearden, người tổ chức các cố gắng của cơ quan CIA để giúp đở người Afghanistan trong cuộc chiến tranh của họ chống Liên Sô hồi đó, nói rằng "các anh có biết rằng các anh đang bắt đầu thất bại trong trận chiến tranh du kích khi "lực lượng bảo vệ" trở thành điều lo lắng nhứt của quân đội. Và chúng ta bắt đầu nghe thấy điều đó trong giới quân sự cao cấpï ở Baghdad". Cuộc tấn công vào trụ sở LHQ ở Baghdad được xem như xảy ra trong ánh sáng của cái nhìn đó.
Các anh có thể cho rằng cuộc tấn công đó là một hành động có ý nghĩa để làm cho các cố gắng của tiến trình giúp đỡ và tái thiết Itaq chậm lại và cô lập Hoa kỳ như là kẻ thù. Nếu LHQ giảm bớt các hoạt động ở Iraq, thì du kích quân - bất cứ là ai - sẽ diễn tả cuộc chiến đấu của họ như là để chống một kẻ thù duy nhứt là Hoa Kỳ. Đó là điều đã xảy ra cho Liên Sô ở Afghanistan. Sự hiện diện của Liên Sô hơn là của chính phủ Afghanistan được Liên Sô ủng hộ, đã trở thành mục tiêu chính của chiến cuộc và việc ra đi của quân đội Liên Sô trở thành mục tiêu duy nhứt của tất cả các nhóm du kích chống đối. Với tình trạng đó, quân sĩõ Liên Sô trở thành "vật hấp dẩn" cho những chiến sĩ của cuộc "thánh chiến" để bảo vệ lãnh thổ của Hồi giáo. Viên tư lịnh quân đội Mỹ ở Baghdad, tướng John Abizaid, gần đây có tuyên bố rằng ít nhứt có hơn 1000 chiến sĩ Hồi giáo ngoại quốc, đã xâm nhập Iraq, nơi có cuộc thánh chiến mới của ho.ï
Trong khi không được đem ra tranh luận công khai, những điểm tương đồng giữa hai sự chiếm đóng của Hoa Kỳ và Liên Sô thường được nhiều chính trị gia nhắc nhở tới.
Mấy tuần lễ trước đây, một phóng viên có hỏi ông ông Richard L. Armitage, thứ trưởng ngoại giao, rằng Hoa Kỳ làm thế nào để thuyết phục người Iraq rằng Hoa Kỳ không giống như Liên Sô ở Afghanistan. Ông Armitage không hề xem câu hỏi đó là một chuyện buồn cười, nhưng trái lại ông còn trả lời cho thấy ông đã suy nghĩ tới vấn đề đó từ trước. Câu trả lời của ông Arrmitage cho thấy rằng Hoa Kỳ sẽ làm cho người Iraq sẽ tự cai trị sớm và làm cảnh sát trên đất nước của họ và rằng các lực lượng của Hoa Kỳ sẽ đối xử đàng hoàng với người Iraq. Ông nói:" Sẽ không có nạn đói ở Iraq (phải không) " Sẽ có rất ít người di tản và tị nạn. Tất cả các trường đại học đã mở cửa...Trước đây có bao nhiêu là chuyện hải hùng...Bây giờ thì người ta có thể đi ngũ mà không phải lo sợ bị nhân viên sở Mukhabarat gõ cửa ban đêm"
Ông Armitage đã có một sự trả lời thích hợp, hữu lý, nhưng ông không trả lời cho vấn đề chính: Hoa Kỳ làm thế nào để cho kẻ thù của mình không tìm cách giết chết quân sĩ Mỹ và những quân sĩ khác, và phá rối những cố gắng để kiến tạo một xã hội dân sự"
Ở một thời điểm nào đó, số quân sĩ Hoa Kỳ bị thương tật và bị giết không thể chấp nhận được và các vị chỉ huy quân đội sẽ phải phản ứng một cách tích cực. Lô-gíc của chiến tranh du kích thúc đẩy lực lượng chiếm đóng phải làm những điều mà thường khi họ không muốn làm, giống như việc Liên Sô phải dội bom nhiều khu vực ở Hertat biến thành tro bụi khi hơn 12 thường dân Liên Sô bị giết ở đó.
Làm thế nào để chắc chắn rằng các lực lượng Hoa Kỳ không trở thành giống như quân đội Sô Viết ở Afghanistan" Thật là một chuyện mĩa mai khi người ta có thể tìm thấy câu trả lời cho việc đó với tình hình hiện nay ở Afghanistan.
Trong khi người ta có thể cảm nhận rằng các biến cố có thể vượt ra khỏi tầm tay ở Iraq, thì điều đó đã không xảy ra ở Afghanistan. Được xem như có một cuộc nổi loạn của du kích - chống lại các lực lượng Hoa Kỳ và chính phủ Kazai - nhưng nó chỉ thu thập được một ít kết quả trong việc ngăn chận sự phát triển và gây thiệt hại quân sự. Afghanistan là một đất nước rộng bằng một phần rưởi Iraq và có nhiều hơn Iraq mấy triệu dân số, nhưng đã được ổn định hơn với 15,000 binh sĩ Mỹ và quân sĩ quốc tế, hơn là ở Iraq với 140,000 quân sĩ Mỹ và 12.000 binh sĩ Anh . Tôi nghĩ rằng đó là vì những chiến sĩ Taliban cũ không được quảng đại quần chúng ủng hộ và họ không có thể di chuyển dễ dàng ra ngoài và nhiều khu vực sát biên giới phía Đông và nhiều khu vực hẻo lánh khác. Một lý do chính của việc đó là sự có mặt của quân đội Mỹ ở đó không bị xem như là để chiếm đóng đất nước họ, mà là một bộ phận của sự cố gắng của quốc tế với quân sĩ cũa tổ chức NATO (Tổ chức phòng thủ Bắc Đại Tây dương) , với những thành tích của các tổ chức quốc tế và một vai trò chính của LHQ trong việc xây dựng lại đất nước. Một cuộc du kích chiến chống lại LHQ, như cuộc cho nổ nom vừa rồi ở Baghdad là không hợp lý như một cuộc cho nổ bom để chống lại Liên Sô hay Hoa Kỳ một cách riêng rẽ.
Lẽ dĩ nhiên có một số khác biệt lớn giữa những gì người Mỹ phải đối phó ở Iraq với những gì người Nga phải đối phó ở Afghanistan. Các du kích quân ở Afghanistan được người Mỹ, Trung quốc , Hồi quốc và nhiều quốc gia khác nữa ủng hộ, trong khi du kích quân Iraq không được biết có sự ủng hộ của một quốc gia nào như vậy. Liên Sô hiện yếu thua Hoa Kỳ về nhiều phương diện, và cũng không được trang bị đầy đủ như Hoa kỳ. Và địa thế núi đồi ở Afghanistan cũng giúp cho du kích quân Afghanistan nhiều hơn là cho du kích quân ở Iraq. Nhưng khi người ta bắt đầu tưởng tượng một trường hợp thật xấu ở Iraq, thì có thể có một cuộc du kích chiến kéo dài với những ảnh hưởng của nó.
Thiếu tướng hồi hưu Theodore Mataxis, một chuyên viên về du kích chiến, đã diển tả những khó khăn trầm trọng mà quân đội chiếm đóng sẽ gặp phải, trong một bài mở đầu cho một tạp chí của người Nga nói về chiến tranh ở Afghanistan. Ông nói:" Điều du kích không cần là chiến thắng quân sự. Du kích chiến chỉ cần tồn tại và chịu đựng hàng năm hay hàng thập kỷ cho cuộc chiến đấu. Kẻ chiến thắng trong một cuộc chiến đấu như thế là kẻ đã có một tinh thần cao, một ý chí bền vững, môt ý chí quốc gia mãnh liệt và quyết tâm để tồn tại".
Chính quyền Hoa kỳ muốn làm tất cả để mở rộng việc quốc tế hóa sự chiếm đóng ở Iraq trước khi nó rơi xuống tình trạng lô-gíc tàn khốc của một cuộc chiến tranh dơ bẩn.
Bởi vì nếu và khi nó xảy đến thì gần như Hoa Kỳ không còn có thể duy trì được tinh thần cao độ cũng như ý chí quốc gia mạnh mẽ cần thiết để chiến thắng - và sẽ giống như người Nga ở Afghanistan vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sky River Casino vô cùng vui mừng hào hứng tổ chức chương trình Ăn Tết Nguyên Đán với những giải thưởng thật lớn cho các hội viên Sky River Rewards. Chúng tôi cũng xin kính chúc tất cả Quý Vị được nhiều may mắn và một Năm Giáp Thìn thịnh vượng! Trong dịp đón mừng Năm Mới Âm Lịch năm nay, 'Đội Múa Rồng và Lân Bạch Hạc Leung's White Crane Dragon and Lion Dance Association' đã thực hiện một buổi biểu diễn Múa Lân hào hứng tuyệt vời ở Sky River Casino vào lúc 11:00 AM ngày 11 Tháng Hai. Mọi người tin tưởng rằng những ai tới xem múa lân sẽ được hưởng hạnh vận.
Theo một nghiên cứu mới, có hơn một nửa số hồ lớn trên thế giới đã bị thu hẹp kể từ đầu những năm 1990, chủ yếu là do biến đổi khí hậu, làm gia tăng mối lo ngại về nước cho nông nghiệp, thủy điện và nhu cầu của con người, theo trang Reuters đưa tin vào 8 tháng 5 năm 2023.
(Tin VOA) - Tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) vào ngày 13/9 ra thông cáo lên án Việt Nam tiếp tục lạm dụng hệ thống tư pháp để áp đặt những án tù nặng nề với mục tiêu loại trừ mọi tiếng nói chỉ trích của giới ký giả. Trường hợp nhà báo tự do mới nhất bị kết án là ông Lê Anh Hùng với bản án năm năm tù. RSF bày tỏ nỗi kinh sợ về bản án đưa ra trong một phiên tòa thầm lặng xét xử ông Lê Anh Hùng hồi ngày 30 tháng 8 vừa qua. Ông này bị kết án với cáo buộc ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước’ theo Điều 331 Bộ Luật Hình sự Việt Nam
Từ đầu tuần đến nay, cuộc tấn công thần tốc của Ukraine ở phía đông bắc đã khiến quân Nga phải rút lui trong hỗn loạn và mở rộng chiến trường thêm hàng trăm dặm, lấy lại một phần lãnh thổ khu vực đông bắc Kharkiv, quân đội Ukraine giờ đây đã có được vị thế để thực hiện tấn công vào Donbas, lãnh phổ phía đông gồm các vùng công nghiệp mà tổng thống Nga Putin coi là trọng tâm trong cuộc chiến của mình.
Tuần qua, Nước Mỹ chính thức đưa giới tính thứ ba vào thẻ thông hành. Công dân Hoa Kỳ giờ đây có thể chọn đánh dấu giới tính trên sổ thông hành là M (nam), F (nữ) hay X (giới tính khác).
Sau hành động phản đối quả cảm của cô trên truyền hình Nga, nữ phóng viên (nhà báo) Marina Ovsyannikova đã kêu gọi đồng hương của cô hãy đứng lên chống lại cuộc xâm lược Ukraine. Ovsyannikova cho biết trong một cuộc phỏng vấn với "kênh truyền hình Mỹ ABC" hôm Chủ nhật: “Đây là những thời điểm rất đen tối và rất khó khăn và bất kỳ ai có lập trường công dân và muốn lập trường đó được lắng nghe cần phải nói lên tiếng nói của họ”.
Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam cử hành Ngày Quốc tế Nhân Quyền Lần Thứ 73 và Lễ Trao Giải Nhân Quyền Việt Nam lần thứ 20.
Sau hơn 30 năm Liên bang Xô Viết sụp đổ, nhân dân Nga và khối các nước Đông Âu đã được hưởng những chế độ dân chủ, tự do. Ngược lại, bằng chính sách cai trị độc tài và độc đảng, Đảng CSVN đã dùng bạo lực và súng đạn của Quân đội và Công an để bao vây dân chủ và đàn áp tự do ở Việt Nam. Trích dẫn chính những phát biểu của giới lãnh đạo Việt Nam, tác giả Phạm Trần đưa ra những nhận định rất bi quan về tương lai đất nước, mà hiểm họa lớn nhất có lẽ là càng ngày càng nằm gọn trong tay Trung quốc. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Tác giả Bảo Giang ghi nhận: “Giai đoạn trước di cư. Nơi nào có dăm ba cái Cờ Đỏ phất phơ là y như có sự chết rình rập." Tại sao vậy? Để có câu trả lời, mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của nhà văn Tưởng Năng Tiến.
Người cộng sản là những “kịch sĩ” rất “tài”, nhưng những “tài năng kịch nghệ” đó lại vô phúc nhận những “vai kịch” vụng về từ những “đạo diễn chính trị” yếu kém. – Nguyễn Ngọc Già (RFA).. Mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của phó thường dân/ nhà văn Tưởng Năng Tiến để nhìn thấy thêm chân diện của người cộng sản.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.