Chỉ trong vòng vài thế kyœ từ sau khi được mang ra khoœi Á Châu, trà đã trơœ thành thức uống thông dụng thứ nhì trên thế giới, sau nước lã. Riêng tại Úc, tính đổ đồng thì mỗi người dân tiêu thụ hết 1.6kg trà mỗi năm. Ngoài các loại trà túi uống liền thì trà lá đen (black tea) là loại trà thông dụng nhất ơœ phương Tây. Trong khi đó, ơœ các quốc gia mà cách thức pha trà và uống trà được nâng lên thành hàng nghệ thuật siêu đẳng thượng thừa như Trung Hoa, Nhật Baœn, Việt Nam thì trà lá xanh (green tea) lại được ưa chuộng nhất.
Tuy được phân chia thành hai loại như thế, nhưng thật ra thì các lá trà đen hoặc xanh đều được gặt hái từ cùng một giống cây trà mà tên khoa học là camellia sinensis. Sự khác biệt giữa hai loại trà này chỉ là từ cách uœ và sấy khô lá trà mà thôi. Trà lá đen bị làm cho héo trước, sau đó cuộn lại, phơi khô qua một quá trình lên men. Ngược lại, để làm trà lá xanh thì lá trà non được hái khi còn tươi, hấp bằng hơi nước rồi sau đó mới cuộn lại và phơi khô ơœ nhiệt độ thật cao để khoœi lên men. Chính nhờ vậy mà trà lá xanh mới có được một cái vị nhẹ nhàng, thoang thoaœng, khác hẳn vị đậm đặc đắng ngắt cuœa trà lá đen.
Gần đây, khoa học gia Tây phương không ngớt cổ vũ cho chuyện uống trà, đặc biệt là trà xanh vì nhiều khám phá lý thú về loại thức uống thật khiêm tốn này. Trà được cho là hữu ích trong việc ngăn ngừa và chữa trị một số bệnh tật kể caœ lượng cholesterol cao trong máu, áp huyết cao, phong thấp, các loại bệnh đường tim (cardiovascular diseases), nghẽn mạch máu (stroke).v.v...
Dĩ nhiên uống trà chỉ giúp một phần nhoœ trong việc baœo vệ sức khoœe mà thôi. Vấn đề chuœ yếu trong việc phòng bệnh vẫn là việc tập luyện thể thao thể dục điều độ để giữ cho thân thể được cường tráng, khoœe mạnh, cho đầu óc được linh lợi.
Chính nhờ hiểu thấu được câu châm ngôn “một tinh thần minh mẫn trong một thân thể tráng kiện” nên Gabrielle Reece, người nữ cầu thuœ bóng chuyền một thời vang bóng với cú chặn tuyệt vời và cú đập sấm sét khó đỡ, mặc dù không còn tranh tài trên sân banh nữa nhưng vẫn không hề sao nhãng trong việc luyện tập thể lực.
Sanh ra ơœ California, suốt thời thơ ấu Gabrielle cùng gia đình sinh sống ơœ Virgin Islands và sau đó mới dọn về định cư tại Florida. Từ thuơœ bé nàng là một người năng động, ưa thích thể thao, với thân hình cao lêu nghêu như một con sếu, mới lên 7 tuổi đã cao 1,5m.
Khi lên trung học thì nàng gia nhập vào đội bóng chuyền cuœa trường và nhanh chóng trơœ thành cầu thuœ được ưa chuộng nhất đội, không những vì tài đánh banh mà còn vì tính tình hiền hòa, dễ mến nữa. Chính nhờ vào tài đánh banh mà nàng được học bổng cuœa đại học Florida State University để theo học cưœ nhân truyền thông. Trong suốt thời gian ơœ đại học, Gabrielle nhận lãnh vô số phần thươœng và huy chương và được ghi danh vào Athletic Hall of Fame cuœa trường.
Song song với những hoạt động thể thao, trong năm thứ nhì ơœ đại học, Gabrielle cũng bước vào lãnh vực người mẫu để kiếm tiền tiêu vặt. Với chiều cao gần 1,9m và thân hình săn chắc thon gọn thật khiêu gợi cùng dung mạo mỹ miều, chỉ trong vòng một thời gian ngắn nguœi sau khi đầu quân dưới trướng cuœa công ty đại diện người mẫu Ford Agency thì Gabrielle được tạp chí Elle chọn làm một trong 5 nàng mỹ nhân tuyệt haœo cuœa thế giới trong năm. Chẳng bao lâu sau thì nàng thường xuyên xuất hiện trên trang bìa cuœa những tạp chí chuyên đề thời trang như Harper’s Bazaar, Life.v.v... và những tạp chí chuyên đề thể thao như Women’s Fitness & Sports.
Gabrielle cũng thành công trong việc liên kết thể thao và thời trang khi nàng trơœ thành phát ngôn nhân chính thức cho Nike. Mặc dù tạo được nhiều danh tiếng như một người mẫu quaœng cáo và thời trang, nhưng Gabrielle vẫn chuyên chú vào niềm đam mê cuœa đời nàng là bóng chuyền. Sau khi tốt nghiệp đại học thì Gabrielle chuyển thành cầu thuœ bóng chuyền chuyên nghiệp, chuyên giao đấu trong các trận đánh đôi (beach volleyball). Nàng lập được nhiều thành tích đáng kể trong lãnh vực này.
Gabrielle đi vào lịch sưœ thể thao thế giới khi nàng trơœ thành nữ lực sĩ đầu tiên trên thế giới đã phác họa và kiến tạo một loại giầy đặc biệt cho Nike, tên gọi Air Trainer. Nàng cũng đóng góp rất nhiều trong việc kiến tạo hai loại giầy khác cho Nike là Air Patrol và Air GR. Chính vì thế nên nàng được Women’s Fitness & Sports xếp vào danh sách những phụ nữ có đóng góp đáng kể cho sự phát triển cuœa thể thao ơœ Hoa Kỳ.
Ngoài sự nhanh nhẹn, deœo dai cuœa một lực sĩ cùng nhan sắc tuyệt thế cuœa một người mẫu hàng đầu và đầu óc cuœa một nhà thiết kế tạo mẫu thành công, Gabrielle còn là một người có tài ăn nói thật duyên dáng, lém lỉnh cùng tài viết văn lưu loát. Và chính nhờ vào những tài năng này mà sau khi giaœi nghệ thể thao, nàng trơœ thành một cộng tác viên thường xuyên cuœa những tạp chí như Elle, Women’s Fitness và là người bình luận thể thao cho các đài truyền hình MTV, CBS và gần đây nhất là USA Sports.
EVA MENDES
Theo khoa chiêm tinh cuœa Tây Phương thì những năm cuối cuœa thập niên 60 và đầu thập niên 70 thuộc về Kyœ Nguyên Baœo Bình (Age Of Aquarius), một thời đại cuœa hòa bình, cuœa tình yêu, cuœa sự tương thân tương ái tương trợ giữa người và người, khi thế giới không còn tÿ hiềm, ganh ghét, tranh giành và nhân loại sống hòa hợp, bình đẳng với nhau trong một thế giới đại đồng, không còn phân chia chuœng tộc, tôn giáo, ý thức hệ nữa.
Và quaœ thật, trong những năm ấy, giới treœ ơœ Tây Phương đã nhiệt tình tham gia phong trào hippy, tìm về thiên nhiên, sống hòa đồng trong những công xã (commune) raœi rác khắp các quốc gia Tây phương tiên tiến, với ước mơ trơœ về nguồn cội, giã từ lối sống duy vật, ích kyœ, mê đắm tiền tài vật chất cuœa thế hệ trước để tạo dựng nên một lối sống mới, một xã hội mới, toàn thiện toàn haœo. Thế nhưng, các công xã hướng thượng mộng tươœng (utopian commune) ấy cũng nhanh chóng lụi tàn vì những tính chất cố hữu cuœa con người, đặc biệt là tính ưa thích cá biệt (individualism), chẳng chóng thì chầy cũng tạo nên xích mích, ghen tuông, hờn giận giữa những người trong công xã.
Tuy vậy, có nhiều công xã vẫn còn hiện hữu cho đến bây giờ, hơn 30 năm sau khi cao trào này bộc phát. Theo tiến sĩ William Metcalf, một trong những sưœ gia hàng đầu cuœa Úc, thuộc đại học Griffith ơœ Brisbane, thì hiện nay ơœ Úc có từ 100 đến 1000 “cộng đồng tự tạo” (intentional community). Ông cho biết những cộng đồng này, cũng như giới khoa baœng chuyên nghiên cứu về lịch sưœ xã hội học, tránh dùng từ “công xã” vì nó khiến người ta liên tươœng đến những xấu xa cuœa chuœ nghĩa cộng saœn hoặc cuœa Công Xã Ba Lê trong lịch sưœ.
Các “cộng đồng tự tạo” này thường được tạo dựng trên ba căn baœn chính là môi sinh, cộng đồng hoặc tâm linh. Cũng có một số được thành lập vì những nhu cầu xã hội, chẳng hạn như nhu cầu gia cư, cha mẹ đơn chiếc hoặc nếp sống đồng tính luyến ái. Nhiều nhóm chia xeœ tất caœ mọi thứ với nhau, từ nơi ăn chốn ơœ cho đến ngay caœ kem chaœi răng và xà phòng cũng dùng chung, như một đại gia đình thực sự. Nhiều nhóm khác có những nóc gia riêng biệt nhưng một trung tâm chung để cùng sinh hoạt. Nhiều nhóm đòi hoœi sự đóng góp vào những công việc xây dựng chung nhiều hơn các nhóm khác.
Phần đông các “cộng đồng tự tạo” hiện nay đều bao gồm phần lớn thành viên vốn thuộc tầng lớp trung lưu, hoặc những người có ngành nghề chuyên môn, những người có nhiều điều kiện để có thể dễ dàng thay đổi nếp sống, không phaœi chật vật vì kinh tế. Họ cùng nhau sinh sống trong một môi trường khá hoàn haœo với các khu gia cư được quy hoạch rõ rệt nhằm baœo vệ môi sinh (eco-housing), baœo vệ sự yên bình cuœa mọi người trong cộng đồng, nhưng đồng thời rất cơœi mơœ và luôn khuyến khích việc vận dụng trí não để caœi thiện đời sống, caœi thiện xã hội.
Một trong những “cộng đồng tự tạo” hoặc “công xã” thành công và tiên tiến nhất cuœa Úc là Moora Moora, gần Healesville, Victoria. Nó được thành lập cách nay hơn 30 năm, vào thời điểm mà các công xã được giới treœ đầy lý tươœng và nhiệt huyết thành lập. Cơ cấu cuœa Moora Moora là những nóc gia riêng biệt thuộc chuœ quyền cuœa những người độc thân hoặc gia đình thành viên quây quần quanh những tiện nghi công cộng, chẳng hạn như phòng giặt, máy biến điện và vườn tược. Mỗi tổ gồm một số nóc gia được phân công làm việc chung một ngày mỗi tháng. Có những buổi họp thường lệ cuœa công xã mà mọi người phaœi tham dự để quyết định các vấn đề chung hoặc để giúp nhau giaœi quyết các xích mích, xung đột, nếu có. Mọi người đều sống trong tinh thần tương thân tương trợ, đùm bọc lẫn nhau.
Chính cơ cấu này đang được một số nhà phát triển địa ốc có tâm huyết và có viễn kiến về sự phát triển cuœa xã hội nghiên cứu và mong muốn áp dụng vào các khu gia cư mà họ sẽ phát triển trong nội thành các thành phố lớn. Theo những người này thì khi mà thế giới ngày càng hỗn loạn với những hiểm họa có veœ ngoài sức kiểm soát cuœa con người, chẳng hạn như khuœng bố, trộm cắp, cướp giật gia tăng, hay sự lấn lướt cuœa các phương tiện khoa học hiện đại trong đời sống hàng ngày khiến con người ngày càng trơœ nên khép kín, cô lập với thế giới chung quanh, khi mỗi nóc gia ngày càng thu nhoœ, chỉ có người độc thân hoặc gia đình một con, thì nhu cầu cuœa các “công xã” hoặc “cộng đồng tự tạo” với cấu trúc như Moora Moora hoặc gần giống như những kibbutz cuœa những người Do Thái khai hoang sẽ càng trơœ nên cấp bách hơn.
Một trong những thí điểm mà loại chung cư với cơ cấu “cộng đồng tự tạo” sẽ được xây dựng là East Brunswick, Melbourne. Theo dự tính cuœa công ty Merri Cohousing thì một khu gia cư bao gồm khoaœng 14 nóc gia cho những người trong lứa tuổi 30 - 40 với con nhoœ. Giữa các căn nhà sẽ không có hàng rào ngăn cách, tất caœ sẽ cùng chia xeœ sân chơi chung rộng lớn cùng một trung tâm hội họp nơi mọi người ít nhất sẽ cùng nhau ăn uống một lần một tuần và có thể cùng uống cà phê, tán gẫu bất cứ lúc nào. Có thể sẽ có văn phòng hành chánh cho công xã. tất caœ xe cộ sẽ được đậu phía ngoài để tạo nên một môi trường an toàn cho treœ em”.
Cơ cấu cuœa một “cộng đồng tự tạo” như thế có thể sẽ có nhiều cơ hội để thành công hơn là những công xã hướng thượng mộng tươœng (utopian commune) bơœi vì nó có veœ như tìm được một sự cân bằng cần thiết giữa nhu cầu có cuộc sống riêng tư cá biệt, tự lập cuœa từng cá nhân và nhu cầu hỗ tương cần thiết cho đời sống tinh thần, tâm linh, tình caœm trong một xã hội ngày càng trơœ nên khô khan cằn cỗi, máy móc và thiếu hẳn tình người.
Một yếu tố thuận lợi khác cuœa những “cộng đồng tự tạo” này là việc tất caœ thành viên đều tự nguyện đến với cộng đồng chứ không bị cưỡng bách, ép buộc, và những cơ cấu đều nhằm mục đích nâng cao tính hỗ tương hơn là rình rập soi mói theo kiểu tổ, khóm, phường mà chính quyền áp đặt lên với mục đích thống trị dân chúng, như tại các quốc gia cộng saœn như Việt Nam, Cuba.v.v...
Là con út cuœa một gia đình người tÿ nạn cộng saœn gốc Cuba, cho nên mặc dù sinh trươœng ơœ Hoa Kỳ Eva Mendes vẫn được cha mẹ dạy dỗ nhắc nhớ về những gò bó, áp bức cuœa chế độ độc đaœng độc tài ơœ quê cha đất tổ và từ đó yêu quý sự tự do mà bạn bè cùng trang lứa với nàng thường xem như một điều tất nhiên và không biết trân quý.
Suốt thời thơ ấu và niên thiếu, mặc dù lớn lên ơœ Los Angeles, thành phố cuœa hào nhoáng, cuœa những giấc mơ điện aœnh, Eva vẫn không hề tơ tươœng đến việc bước chân vào phim trường Hồ Ly Vọng. Như đa số những người di dân đời thứ hai, nàng vâng theo lời khuyên nhuœ cuœa cha mẹ và chuyên chú theo đuổi việc học.
Tuy nhiên, tạo hóa đã dành cho người thiếu nữ với nước da bánh mật, có nụ cười quyến rũ và thân hình vệ nữ này một hướng đi khác hẳn với những ao ước và dự đoán cuœa cha mẹ nàng và cuœa chính nàng. Khi đang theo đuổi ngành tiếp thị và thiết kế tại đại học California State Northridge, thì một tay đại diện tài tưœ vô tình nhìn được tấm aœnh cuœa nàng tại nhà người hàng xóm vốn là nhiếp aœnh chuyên nghiệp và tay này bị hớp hồn vì nụ cười duyên dáng cùng dáng điệu hết sức tự nhiên nhưng không kém phần khêu gợi cuœa nàng trong hình nên đã tìm cách làm quen và sau đó thuyết phục nàng nên thưœ bước vào phim trường.
Vì cần tiền tiêu xài nên Eva đồng ý tham dự một cuộc tuyển lựa diễn viên cho một đoạn video kèm theo baœn nhạc “Hole In My Soul” cuœa ban nhạc rock lão thành Aerosmith. Thân hình khêu gợi, đầy đặn nóng boœng tràn nhựa sống cùng với phong thái uyển chuyển gợi tình sống động khi vũ múa - vốn là đặc tính cuœa những người gốc châu Mỹ La Tinh - đã khiến Eva được thâu nhận. Tiếp theo đó, nàng thường xuyên xuất hiện trong các video nhạc khác.
Chẳng bao lâu sau thì Eva boœ hẳn việc học để chuyên chú vào sự nghiệp diễn viên, qua những lần xuất hiện trong các bộ phim tập truyền hình như Mortal Kombat: Conquest, ERv.v... Sau đó, nàng bắt đầu đóng trong những cuốn phim hạng B. Nếu là những người đẹp vô hồn, đầu óc rỗng tuếch, chỉ nhờ cậy vào dáng vóc và thân hình để giành được vai trò trong phim aœnh thì có lẽ Eva sẽ không thể nào vượt ra khoœi những vai phụ này.
Tuy nhiên, ngoài sự thu hút quyến rũ bẩm sinh, nàng còn được tạo hóa ban cho tài diễn xuất. Vì thế, mặc dầu bắt đầu sự nghiệp hơi trễ so với những người đồng trang lứa, nàng nhanh chóng tạo dựng được tên tuổi qua những phim như Exit Wounds, All About The Benjamins để sau đó được giao cho vai nữ chính trong phim Training Day với Denzel Washington. Gần đây hơn nữa, qua vai nữ chính trong 2 Fast 2 Furious, nàng đã mặc nhiên trơœ thành một trong những nữ minh tinh nóng boœng, khêu gợi nhất Hồ Ly Vọng.
Địa vị cuœa nàng ơœ Hồ Ly Vọng cũng như trong lòng khán giaœ sẽ được cuœng cố thêm nữa qua những phim đã hoàn tất và sẽ được trình chiếu nay mai như Out Of Time, Stuck On You, Desperado II: Once Upon A Time In Mexico.