Hôm nay,  

Chết Mà Vẫn Sống

08/08/200700:00:00(Xem: 11021)

Năm 1975, VNCH thua trận. Ít lâu sau đó MTGPMN cũng tiêu vong, không kèn không trống, không Cáo phó, Thiệp tang gì cả. Rồi cái gọi là Lực lượng thứ 3 "thờ ma cộng sản" cũng thành phế thải. Lịch sử đã sang trang chăng" Không, lịch sử vẫn còn tiếp tục, và cuộc chiến của chúng ta vẫn chưa tàn. Bởi vì, ba mươi năm sau đó, VNCH vẫn " tồn tại " như một phép lạ, tồn tại mạnh mẽ trong lòng mỗi người lính, người dân, cả trong và ngoài nước. Chúng ta có ảo tưởng chăng" Không đâu. Đó là thực tế, một thực tế mà ngay chính những người cộng sản cũng không thể nào phủ nhận. Chẳng những không thể phủ nhận mà còn sợ hãi là đàng khác.

Bạn thử nhìn cho kỷ xem. Những người dân oan đã và đang ngày nầy qua ngày khác đội đơn đi khiếu kiện khắp nơi, từ Saigon ra Hà nội, chịu đói, chịu khổ, dầm mưa dãi nắng, đó là những ai" Tôi cam đoan là chẳng có một "phó thường dân Nam bộ" nào trong số đó cả. Họ, nếu không là cựu "bộ đội cụ hồ", cán bộ hưu trí, thì ít ra cũng là những bà mẹ chiến sĩ, bà mẹ anh hùng, thương binh, gia đình tử sĩ. Đi khiếu kiện, họ mang theo cờ đỏ, cờ búa liềm, và cả ảnh "Bác" nữa.Nhiều người trong số họ ngực mang đầy huân chương kháng chiến, huân chương "chống Mỹ cứu nước". Họ đều là ân nhân của Đảng cả đó. Vây mà khi bị Đảng đàn áp dã man thì họ kêu cứu với chúng ta, những người Việt hải ngoại, những người tị nạn CS, những người lính, người dân trung thành của chế độ VNCH, những người không chấp nhận chế độ CS. Xin hãy nghe một lời phát biểu của một bà mẹ, một dân oan: "Chúng nó (công an CS) còn tàn ác, dã man hơn cả cảnh sát của TT Nguyễn Văn Thiệu thời VNCH nữa". Câu hỏi đặt ra là:" Nếu những người dân oan đó vẫn coi chúng ta là "Mỹ-Ngụy", như họ đã từng gọi trước đây, liệu họ có cần tới chúng ta không" Xin đừng nói rằng họ nghĩ đến chúng ta chỉ vì chúng ta có hơi đồng...đô. Nói như vậy e rằng hơi có chỗ chưa biết bụng dạ dân miền Nam. Tôi chỉ muốn các bạn hiểu rằng người dân trong nước đã so sánh, và đã nhận ra sự khác biệt rõ ràng giữa hai chế độ. Cho nên họ đã kêu cứu với chúng ta, những người mà họ dư biết là đang đối đầu với cái đảng Mafia CS đang cai trị họ. Thêm một điểm nữa, họ biết chúng ta có cái miệng không bị bịt (như họ), có thể thay họ kêu to lên cho cả năm châu bốn biển đều nghe. Đó mới là nguyên nhân chính. Và chúng ta đã dang rộng vòng tay cứu giúp họ trong khả năng có thể của mình. Tại sao chúng ta làm vậy" Đơn giản là vì chúng ta không phải CS.Chúng ta biết quý trọng tình dân tộc, nghĩa đồng bào.Chúng ta không cần biết trước kia họ theo ai, giúp ai. Máu chảy ruột mềm là vậy. Sự thực chúng ta đâu có xúi họ đi biểu tình. Mà làm sao xúi nỗi nếu như họ không bị cướp đất, cướp nhà, cướp của, oan khuất thấu trời xanh. Chúng ta cũng chưa bao giờ dám nói chế độ VNCH là "ưu việt", như CS vẫn huênh hoang về chế độ ác ôn của chúng. Nếu như họ thấy chế độ của chúng ta năm xưa còn tệ hại hơn cái chế độ "dân chủ gấp ngàn lần chế độ tư bản" thì họ dại gì cầu cứu chúng ta. Còn người CS, chúng thừa biết chúng ta không bao giờ, và cũng không thể xúi dục được ai, vậy tại sao chúng vẫn vu khống chúng ta" Lý do là vì chúng muốn trốn tránh trách nhiệm, tưởng như cứ đổ vấy cho "thế lực thù địch" bên ngoài là mọi chuyện đều xong, vừa phủi tay, vừa hù dọa cho người ta sợ, không dám chống đối nữa. Nhưng dân chúng bây giờ chẳng những không tin mà cũng không sợ nữa. Ngược lại, càng vu khống bao nhiêu, càng bộc lộ nỗi sợ hãi của chính chúng bấy nhiêu.

Người CS sợ cái gì" Sợ VNCH sống lại trong lòng dân. Nhưng sợ cũng vô ích. Bởi vì gió đã đổi chiều. Một bạn đồng nghiệp cũ của tôi, nhờ có "lý lịch trong sạch", được cho tiếp tục dạy học sau năm 1975. Sau nhiều năm tận tụy, anh lên được chức Hiệu Phó chuyên môn. Làm Hiệu Phó hơn 10 năm trời không lên nổi Hiệu Trưởng. Bạn bè gọi đùa anh là Hiệu phó...muôn năm. Năm ngoái tôi có dịp  tới thăm anh. Trong một lúc trà dư tửu hậu, anh ghé tai tôi nói nhỏ: "VNCH tuy đã chết mà vẫn sống. Còn cái quái thai CHXHCN nầy tuy đang sống mà thực sự đã chêt mất tiêu rồi". Hỏi tại sao nói vậy" Anh cười cười :"Bây giờ đi đâu cũng nghe người ta nói: "đừng nghe những gì CS nói, hãy nhìn kỹ những gì CS làm." Không phải ông Thiệu chết rồi mà vẫn sống đó sao. Với người dân thì ông Thiệu với VNCH đâu có khác gì," Tôi không có dịp lê la các quán cà phê, quán nhậu...để kiểm chứng những lời anh nói. Nhưng có điều tôi biết chắc cái câu nói bất hủ trên đây có đầy dẫy trên các báo điện tử, các diễn đàn internet. Bạn cứ để ý mà xem.

Khi nói VNCH vẫn sống, cả bạn tôi và tôi không ai mơ mộng viễn vong rằng một ngày nào đó chế độ VNCH sẽ lập lại trên đất nước VN. Không. Không ai có ảo tưởng như vậy. Nhưng, nói theo cụ Nguyễn Du, " thác là thể phách, còn là tinh anh". Vâng, cái "tinh anh" của VNCH cho tới nay vần còn nguyên vẹn. Cái tinh anh ấy chưa bao giờ chết trong lòng dân tộc chúng ta. Tôi chắc người CS cũng tin như vậy. Cho nên chúng đã cố gắng triền miên, không ngừng nghỉ từ hơn 30 năm nay để mong dìm cho chết cái tinh anh ấy. Chúng ra tay quét sạch tất cả mọi dấu vết liên quan đến chế độ VNCH: kéo sập tượng đài "Thương Tiếc", cào bằng nghĩa trang Mạc Dĩnh Chi (nơi có mồ mả các nhân vật danh tiếng chế độ cũ), xóa sạch các nghĩa trang Quân đội VNCH...Chúng còn thò tay qua tới tận Indonesia, Malaysia đục bỏ các bia tưởng niệm thuyền nhân.Ngay cả cái di sản cuối cùng của VNCH là nghĩa trang QĐ Biên Hòa vừa qua cũng bị Nguyễn Tấn Dũng giao cho tỉnh Bình Dương, trong một mưu toan rất ma quái gọi là "dân sự hóa". Chúng muốn viết lại lịch sử theo ý chúng để cho nhân dân trong nước bây giờ và "muôn đời con cháu mai sau" không ai còn biết rằng đã từng có một Quốc gia Tự do mang tên VNCH tồn tại hơn 20 năm trên lãnh thổ VN từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau.Chúng muốn người dân nhìn nhận rằng ngoài cái chế độ XHCN "ưu việt" của chúng ra, không còn cái gì khác cả. Không VNCH, không cờ vàng ba sọc đỏ, không chiến tranh ý thức hệ, không Tết "Mậu Thân" Huế, không mùa hè đỏ lửa Quảng Trị, không thuyền nhân, không tị nạn...,không gì hết. Tất cả chỉ có duy nhất Đảng CS quang vinh, chỉ có chống Mỹ cứu nước, chỉ có CNXH bách chiến bách thắng muôn năm...

Chúng muốn nhiều quá, tham lam quá, nên Trời không dung, Đất không tha, Người không thuận. Và chúng đã thất bại.

Năm 1975, lá cờ vàng ba sọc đỏ đã bị hạ xuống, bị lăng nhục. Ở trại tù Trảng Lớn, Tây ninh, chính mắt tôi đã từng đau lòng trông thấy bọn cán binh VC dùng lá cờ của chúng ta để may quần lót. Chúng muốn hạ nhục chúng ta đến tận cùng. Ngày nay, cờ vàng đã đứng dậy, ngạo nghễ tung bay khắp năm châu. Ở đâu có người Việt tị nạn, ở đó có cờ vàng. Bia thuyền nhân bị đục ở Mã lai, Nam Dương, lập tức lại mọc lên ở Úc châu, Âu châu, Bắc Mỹ. Còn phải kể thêm các Viện Bảo Tàng thuyền nhân ở Melbourne, Bảo Tàng Văn Hóa VN ở San Jose, California...Những người lính VNCH năm xưa thua trận bị tù đày, bị hành hạ, bị sỉ nhục, nay đã đứng lên, đã lại là người trên ngựa, tiếp tục cuộc chiến dỡ dang, trên mặt trận mới: mặt trân Dân chủ, Nhân quyền.

NGƯỜI VIỆT TỊ NẠN CỘNG SẢN, đó là vị trí đứng hiện tại của chúng ta. CỜ VÀNG là căn cước của chúng ta. Nhờ đứng vững ở vị trí nầy mà người CS không còn dám xem thường chúng ta. Chúng ta đã từ vị trí những người dưới ngựa, những công dân hạng hai, hạng ba, hạng bét; từ chổ bị coi như " ma cô dĩ điếm"...nay trở thành "khúc ruột xa ngàn dặm", trở thành "máu của máu VN", "thịt của thịt VN", và những người CS rồi đây sẽ còn phải tốn hao nhiều  công sức,sáng tạo thêm bao nhiêu lời hay ý đẹp nữa để chiêu dụ chúng ta. Họ sẽ còn phải đẻ ra bao nhiêu nghị quyết 36, 360, hay 3600 nữa, bao nhiêu "Duyên Dáng Việt nam" nữa để hòng...ỏng ẹo với chúng ta. Rời bỏ VỊ TRÍ ĐỨNG nầy để "bó thân về với triều đình", chúng ta sẽ không còn gì cả, sẽ mất trắng.

Hơn ba mươi năm từ ngày VNCH bị bức tử, cái tinh thần Tự do, Nhân bản của VNCH vẫn sáng chói  trong lòng người Việt Nam, cả trong và ngoài nước. Nó đã, đang và sẽ là nguồn cảm hứng tuyệt vời cho công cuộc đấu tranh vì Tự do, Dân chủ, Nhân quyền của hơn 80 triệu đồng bào ruột thịt của chúng ta...cho đến ngày Thắng lợi cuối cùng. Không còn xa nữa!

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.