Hôm nay,  

Đối Thoại Với CSVN: Người Việt Tị Nạn Đứng Ơ Đâu?

13/08/200700:00:00(Xem: 13594)

Chính phủ Hoa kỳ, từ thời TT Clinton đến nay, đều chủ trương đối thoại với Việt cộng, không chỉ trong lãnh vực kinh tế mà cả trong lãnh vực Dân chủ, Nhân Quyền tại Việt Nam. Trãi qua các nhiệm kỳ Đại sứ, từ ĐS Peterson, ĐS Burghardt, đền ĐS Marine, và nay là vị ĐS thứ tư Michalak, trong những lần gặp gỡ hiếm hoi với Cộng động người Mỹ gốc Việt, các vị đều không quên "khuyên nhủ" người Mỹ gốc Việt nên thôi chống đối nhà cầm quyền Hà nội, nói theo kiểu Việt cộng là nên "quên đi quá khứ, xóa bỏ hận thù, tiến tới tương lai...". Gần đây nhất, ngày 10-8-2007, trả lời cuộc phỏng vấn của phóng viên đài BBC, Tân Đại sứ Michael Michalak cũng có gợi ý."...tôi tin rằng cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại Hoa kỳ cũng như ở các nước khác có một vai trò to lớn trong quá trình thúc đẩy hơn nữa tốc độ phát triển kinh tế và giáo dục."
Mặt khác, theo dõi những diễn biến chính trị tại Washington, DC, trước và sau chuyến đi của Nguyễn Minh Triết (từ 18 đến 23-7-2007) người ta không thể không chú ý sự kiện TT George W. Bush, PTT Dick Cheyny, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia tiếp kiến Đại diện một số tổ chức, đảng phái đấu tranh đòi thực hiện Tự do, Dân chủ, Nhân quyền cho Việt Nam, như Phong Trào QT Yểm trợ Cao Trào Nhân Bản, Đảng Dân Chủ Nhân Dân, Đảng Việt Tân..., có trụ sở tại Hoa kỳ, và Ủy Ban về Quyền Làm Người Việt Nam, trụ sở tại Paris, Pháp. Dư luận đồn đoán, dường như Chính phủ Mỹ đang làm một cuộc "tuyển lựa tài năng" để chọn một số người có nhiều ảnh hưởng trong các Cộng đồng người Việt tị nạn CS, ở Mỹ cũng như ở các nước khác, nhằm sẵn sàng đại diện cho Khối người Việt tị nạn trong một cuộc đối thoại nào đó với nhà cầm quyền CS, có thể xảy ra trong tương lai không xa, theo sự "đạo diễn" của Mỹ và yêu cầu của CSVN.

Đối thoại dĩ nhiên là một biện pháp tốt, vì nó giúp giải quyết những bất đồng giữa hai phía, hay nhiều phía, một cách hòa bình, đưa tới những thỏa hiệp có lợi cho tất cả các bên. Thỏa hiệp được với CP Mỹ, trước tiên là Việt cộng có lợi, được cấp quy chế Thương Mại Bình Thường Vĩnh Viễn, xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ với thuế suất nhiều lần thấp hơn trước kia, kim ngạch xuất khẩu tăng ào ào...Phía Mỹ cũng có lợi, doanh gia Mỹ thoải mái làm ăn tại VN, khai thác lao động rẻ mạt để làm giàu. VN lại có luật cấm đình công, khỏi lo phá sản..., đó là chưa kể tới những lợi ích lớn lao hơn trong việc thực hiện chiến lược toàn cầu khu vực Châu Á, Thái Bình Dương của cường quốc Hoa kỳ.

Nói là nói vậy, nhưng dù sao cái mối giao thương Mỹ-Việt khăn khít ấy cũng còn có chỗ "lấn cấn", lấn cấn ở cái "khâu" người Mỹ gốc Việt, với lực lượng trên một triệu "nhân khẩu" ở Mỹ, và khoản 3 triệu trên toàn thế giới. Thử hỏi, hàng hóa nhập từ VN, nhất là lương thực, thực phẩm, là nhằm để bán cho ai" Mỹ trắng, Mỹ đen, Mỹ đỏ...đâu có ai biết ăn mắm tôm, cà pháo, mắm ruốc Bà Giáo Thảo. Còn tôm cá, hải sản từ Việt nam, theo xét nghiệm của cơ quan FDA, thì chứa đầy chất kháng sinh gây ung thư, ai mà dám rớ. Rốt cuộc, chỉ có người Mỹ gốc Việt, người Việt ở hải ngoại nói chung, mới là nguồn tiêu thụ chính. Dã thử một ngày nào đó, người Việt hải ngoại bổng dưng...nghỉ chơi với hàng hóa nhập từ VN, chuyện gì sẽ xảy ra" Xa hơn chút nữa, nếu một triệu rưỡi "con bò sữa" gốc Việt bổng dưng trở chứng, cứ thích ngao du sơn thủy tận bên Đông Kinh, Hồng Kông, Xanh-ga-po, Băng cốc, không chịu "ghé bến Sai-gòn", một hai đòi..."anh xa Hà-nội", thì sao" Chuyện đó bây giờ chưa xảy ra, nhưng ai dám bảo đảm nó sẽ không xảy một ngày...xấu trời nào đó, khi người Việt hải ngoại chịu hết thấu cái trò ma mãnh, chơi cha, chơi xấu của mấy anh CỘNG SẢN GỐC VIỆT" Cho nên, hơn ai hết, chính nhà cầm quyền Hà nội mới cần đối thoại với cái mà họ ởm ờ gọi là...khúc ruột xa ngàn dặm.

Người Mỹ gốc Việt không sợ đối thoại, kể cả đối thoại với CSVN. Vấn đề là đối thoại như thế nào" Đứng ở đâu để đối thoại cho được bình đẳng, công bằng" Vả lại, đối thoại là nhằm đưa tới một thỏa hiệp hai bên cùng có lợi. Vậy đối thoại với CS trong tình thế hiện nay, người Việt hải ngoại có lợi gì" Đó là những câu hỏi cần có lời giải đáp.

Đã gọi là đối thoại thì cả hai phía, hay nhiều phía, phải có chỗ đứng ngang hàng với nhau, từ đó mới có thể đạt tới một thỏa hiệp công bằng mà cả hai bên, hay nhiều bên, đều chấp nhận được. Không thể có đối thoại bình đẳng giữa kẻ thắng với người thua; giữa kẻ trên tay lăm le khẩu súng với người tay không tấc sắt; giữa tên cướp với nạn nhân của nó. Đối thoại không bình đẳng sẽ không bao giờ có thỏa hiệp công bằng. Đó không phải là đối thoại chân chính. Đó chỉ là một trò lừa đảo, dối trá. Người Việt quốc gia, không CS, đã có nhiều kinh nghiệm trong đối thoại với người cộng sản. Xin kể sơ một vài trường hợp.

Năm 1945, sau khi cướp chính quyền, Đảng Lao Động VN (giả danh của Đảng CS), thực lực còn yếu kém, tự biết chưa đủ sức giữ chính quyền, buộc phải đối thoại với các đảng phái Quốc gia như Việt Cách (được hậu thuẩn của quân đội Quốc Dân Đảng Trung hoa), Đại Việt Quốc Dân Đảng (có lực lượng vũ trang)...Cuộc đối thoại đó, tương đối bình đẳng, ít ra là nhìn bề ngoài, đã đưa tới việc thành lập Chính phủ Lâm Thời đa đảng, trong đó Hồ Chí Minh (Cộng sản) làm Chủ Tịch, cụ Nguyễn Hải Thần (Việt cách) làm phó, cụ Huỳnh Thúc Kháng giữ Bộ Nội Vụ, Nguyễn Tường Tam (Đại Việt) giữ Bộ Ngoại giao, v.v...Chuyện gì xảy ra cho các đảng phái Quốc gia sau khi HCM ký Hiệp định sơ bộ với Pháp, ngày 6-3-1946, cho phép quân Pháp đỗ bộ lên Miền Bắc,  sau khi quân Trung hoa QDDD rút khỏi VN, mọi người đều đã rõ, thiết tưởng không cần nhắc lại ở đây.

Tháng tư 1975, tin tưởng có thể đối thoại với...người anh em phía bên kia, nhằm thành lập một Chính phủ 3 thành phần, bao gồm VNCH, MTGPMN và những người trong "lực lượng thứ 3", ông Dương Văn Minh đã nài nỉ xin "ông thầy" Trần Văn Hương (Tổng Thống kế nhiệm sau khi TT Thiệu từ chức) nhường cho chiếc ghế Tổng Thống. TT Trần Văn Hương, vị TT hợp hiến cuối cùng của VNCH, trong tình thế khó xử bèn đẩy sang Quốc hội, và QH đã tấn phong Dương Văn Minh ngay sau đó, một cách bất hợp hiến. Ngồi tại Dinh Độc Lập rồi, Big Minh, qua trung gian của Thượng tọa Thích Trí Quang, chỉ làm mỗi việc là...chờ, chờ "phía bên kia" đến để nói chuyện...hòa giải, hòa hợp. Trong khi đó, quân CS ngày càng áp sát Saigon. Và, chuyện gì phải đến đã đến chỉ mấy mươi tiếng đồng hồ sau đó. Ông Minh không hiểu rằng Việt cộng không bao giờ đối thoại khi đang ở thế mạnh.

Sau 30-4-1975, chỉ mấy tháng sau khi chiếm Saigon, tại Dinh Độc Lập, cũng có một cuộc đối thoại khác, rất ...hề, gọi là cuộc "Hiệp thương hai miền Nam-Bắc thống nhất đất nước". Cầm đầu phái đoàn Bắc Việt là Trường Chinh, Tổng Bí Thư Đảng Lao động VN (bấy giờ chưa đổi tên thành Đảng CSVN). Cầm đầu phái đoàn Miền Nam là Phạm Hùng (Bí thư Xứ Ủy Nam Bộ Đảng Lao động VN). Không ai nhắc tới Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Mặt Trận GPMN, hay Huỳnh Tấn Phát, Thủ Tướng Chánh phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam, với lá cờ nửa xanh nửa đỏ và chiêu bài Độc lập, Hòa bình, Trung lập...Thực tình mà nói, đây chỉ đơn thuần là một cuộc "đối thoại" giữa hai cha con nhà họ Cộng. Có thể tưởng tượng, trong vỡ tuồng hiệp thương đó, Cộng cha bảo Cộng con:"Mày hết việc rồi. Biến!". Là xong. Thằng con chết mất xác, không để lại dấu tích gì cả. Hạ màn!

TT Bush, Chính phủ Mỹ, các nhà kinh doanh Mỹ, dĩ nhiên muốn người Mỹ gốc Việt thôi chống CSVN. Dàn xếp được chuyện đó, giao thương Mỹ-Việt sẽ hết lấn cấn, Chính phủ cũng đỡ...nhức đầu, còn các nhà kinh doanh thì thoải mái làm ăn ở VN. Như trên đã nói, Đảng CSVN còn mơ ước chuyện đó hơn ai hết, bởi vì như vậy họ mới "nắm" được các cộng đồng người Việt hải ngoại. Mà nắm được cái...khúc ruột ngàn dặm rồi thì tha hồ làm giàu, tha hồ tiếp tục..."muôn năm trường trị". Còn người Việt tị nạn hải ngoại" Họ được gì" Được miễn visa khi về nước" Được mua nhà ở VN" Được mang tiền bạc, chất xám về đầu tư" Nói thật, chuyện miễn visa, mua nhà thì không ai ham, còn đầu tư thì...không dám. Cái gương Trịnh Vĩnh Bình, và vô số người khác nữa, vẫn còn nóng hổi. Nếu nói "khép lại quá khứ, hướng tới tương lai" thì tương lai đó là tương lai nào" Hơn 80 triệu dân trong nước còn chưa thấy chút ánh sáng tương lai nào, chưa biết sẽ còn bị bịt mắt, bịt miệng dẫn tới đâu trên con đường mờ mịt tiến lên CNXH, nói chi người Việt hải ngoại.  Không có tương lai nào cả, một khi cái Điều 4 trịch thượng còn nằm chình ình trong cái gọi là Hiến pháp của nước CHXHCNVN, cho phép Đảng CS áp đặt nền thống trị độc tài tàn bạo vĩnh viễn trên đất nước VN.
Là công dân Mỹ, người Mỹ gốc Việt rất thông cảm, rất biết ơn Tổng Thống, biết ơn Chính phủ, biết ơn các vị Đại sứ, về sự quan tâm của các vị đến vấn đề VN, nơi mà đồng bào ruột thịt của chúng tôi đang phải sống lầm than dưới ách thống trị bạo tàn của một trong vài con khủng long còn sót lại trên hành tinh nầy. Nhưng trong tình thế hiện nay, chúng tôi không có nhu cầu, cũng chưa thấy lý do chính đáng để đối thoại với đảng CSVN, cho tới khi nào cái điều 4 ác ôn ấy không còn nữa. Chừng đó may ra...

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?
Ngày 30/4 năm thứ 46 sau 1975 đặt ra câu hỏi: Còn bao nhiêu năm nữa thì người Việt Nam ở hai đầu chiến tuyến trong chiến tranh mới “hòa giải, hòa hợp” được với nhau để thành “Một Người Việt Nam”? Hỏi chơi vậy thôi chứ cứ như tình hình bây giờ thì còn mút mùa lệ thủy. Nhưng tại sao?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.