Hôm nay,  

Đối Thoại Với CSVN: Người Việt Tị Nạn Đứng Ơ Đâu?

13/08/200700:00:00(Xem: 14020)

Chính phủ Hoa kỳ, từ thời TT Clinton đến nay, đều chủ trương đối thoại với Việt cộng, không chỉ trong lãnh vực kinh tế mà cả trong lãnh vực Dân chủ, Nhân Quyền tại Việt Nam. Trãi qua các nhiệm kỳ Đại sứ, từ ĐS Peterson, ĐS Burghardt, đền ĐS Marine, và nay là vị ĐS thứ tư Michalak, trong những lần gặp gỡ hiếm hoi với Cộng động người Mỹ gốc Việt, các vị đều không quên "khuyên nhủ" người Mỹ gốc Việt nên thôi chống đối nhà cầm quyền Hà nội, nói theo kiểu Việt cộng là nên "quên đi quá khứ, xóa bỏ hận thù, tiến tới tương lai...". Gần đây nhất, ngày 10-8-2007, trả lời cuộc phỏng vấn của phóng viên đài BBC, Tân Đại sứ Michael Michalak cũng có gợi ý."...tôi tin rằng cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại Hoa kỳ cũng như ở các nước khác có một vai trò to lớn trong quá trình thúc đẩy hơn nữa tốc độ phát triển kinh tế và giáo dục."
Mặt khác, theo dõi những diễn biến chính trị tại Washington, DC, trước và sau chuyến đi của Nguyễn Minh Triết (từ 18 đến 23-7-2007) người ta không thể không chú ý sự kiện TT George W. Bush, PTT Dick Cheyny, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia tiếp kiến Đại diện một số tổ chức, đảng phái đấu tranh đòi thực hiện Tự do, Dân chủ, Nhân quyền cho Việt Nam, như Phong Trào QT Yểm trợ Cao Trào Nhân Bản, Đảng Dân Chủ Nhân Dân, Đảng Việt Tân..., có trụ sở tại Hoa kỳ, và Ủy Ban về Quyền Làm Người Việt Nam, trụ sở tại Paris, Pháp. Dư luận đồn đoán, dường như Chính phủ Mỹ đang làm một cuộc "tuyển lựa tài năng" để chọn một số người có nhiều ảnh hưởng trong các Cộng đồng người Việt tị nạn CS, ở Mỹ cũng như ở các nước khác, nhằm sẵn sàng đại diện cho Khối người Việt tị nạn trong một cuộc đối thoại nào đó với nhà cầm quyền CS, có thể xảy ra trong tương lai không xa, theo sự "đạo diễn" của Mỹ và yêu cầu của CSVN.

Đối thoại dĩ nhiên là một biện pháp tốt, vì nó giúp giải quyết những bất đồng giữa hai phía, hay nhiều phía, một cách hòa bình, đưa tới những thỏa hiệp có lợi cho tất cả các bên. Thỏa hiệp được với CP Mỹ, trước tiên là Việt cộng có lợi, được cấp quy chế Thương Mại Bình Thường Vĩnh Viễn, xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ với thuế suất nhiều lần thấp hơn trước kia, kim ngạch xuất khẩu tăng ào ào...Phía Mỹ cũng có lợi, doanh gia Mỹ thoải mái làm ăn tại VN, khai thác lao động rẻ mạt để làm giàu. VN lại có luật cấm đình công, khỏi lo phá sản..., đó là chưa kể tới những lợi ích lớn lao hơn trong việc thực hiện chiến lược toàn cầu khu vực Châu Á, Thái Bình Dương của cường quốc Hoa kỳ.

Nói là nói vậy, nhưng dù sao cái mối giao thương Mỹ-Việt khăn khít ấy cũng còn có chỗ "lấn cấn", lấn cấn ở cái "khâu" người Mỹ gốc Việt, với lực lượng trên một triệu "nhân khẩu" ở Mỹ, và khoản 3 triệu trên toàn thế giới. Thử hỏi, hàng hóa nhập từ VN, nhất là lương thực, thực phẩm, là nhằm để bán cho ai" Mỹ trắng, Mỹ đen, Mỹ đỏ...đâu có ai biết ăn mắm tôm, cà pháo, mắm ruốc Bà Giáo Thảo. Còn tôm cá, hải sản từ Việt nam, theo xét nghiệm của cơ quan FDA, thì chứa đầy chất kháng sinh gây ung thư, ai mà dám rớ. Rốt cuộc, chỉ có người Mỹ gốc Việt, người Việt ở hải ngoại nói chung, mới là nguồn tiêu thụ chính. Dã thử một ngày nào đó, người Việt hải ngoại bổng dưng...nghỉ chơi với hàng hóa nhập từ VN, chuyện gì sẽ xảy ra" Xa hơn chút nữa, nếu một triệu rưỡi "con bò sữa" gốc Việt bổng dưng trở chứng, cứ thích ngao du sơn thủy tận bên Đông Kinh, Hồng Kông, Xanh-ga-po, Băng cốc, không chịu "ghé bến Sai-gòn", một hai đòi..."anh xa Hà-nội", thì sao" Chuyện đó bây giờ chưa xảy ra, nhưng ai dám bảo đảm nó sẽ không xảy một ngày...xấu trời nào đó, khi người Việt hải ngoại chịu hết thấu cái trò ma mãnh, chơi cha, chơi xấu của mấy anh CỘNG SẢN GỐC VIỆT" Cho nên, hơn ai hết, chính nhà cầm quyền Hà nội mới cần đối thoại với cái mà họ ởm ờ gọi là...khúc ruột xa ngàn dặm.

Người Mỹ gốc Việt không sợ đối thoại, kể cả đối thoại với CSVN. Vấn đề là đối thoại như thế nào" Đứng ở đâu để đối thoại cho được bình đẳng, công bằng" Vả lại, đối thoại là nhằm đưa tới một thỏa hiệp hai bên cùng có lợi. Vậy đối thoại với CS trong tình thế hiện nay, người Việt hải ngoại có lợi gì" Đó là những câu hỏi cần có lời giải đáp.

Đã gọi là đối thoại thì cả hai phía, hay nhiều phía, phải có chỗ đứng ngang hàng với nhau, từ đó mới có thể đạt tới một thỏa hiệp công bằng mà cả hai bên, hay nhiều bên, đều chấp nhận được. Không thể có đối thoại bình đẳng giữa kẻ thắng với người thua; giữa kẻ trên tay lăm le khẩu súng với người tay không tấc sắt; giữa tên cướp với nạn nhân của nó. Đối thoại không bình đẳng sẽ không bao giờ có thỏa hiệp công bằng. Đó không phải là đối thoại chân chính. Đó chỉ là một trò lừa đảo, dối trá. Người Việt quốc gia, không CS, đã có nhiều kinh nghiệm trong đối thoại với người cộng sản. Xin kể sơ một vài trường hợp.

Năm 1945, sau khi cướp chính quyền, Đảng Lao Động VN (giả danh của Đảng CS), thực lực còn yếu kém, tự biết chưa đủ sức giữ chính quyền, buộc phải đối thoại với các đảng phái Quốc gia như Việt Cách (được hậu thuẩn của quân đội Quốc Dân Đảng Trung hoa), Đại Việt Quốc Dân Đảng (có lực lượng vũ trang)...Cuộc đối thoại đó, tương đối bình đẳng, ít ra là nhìn bề ngoài, đã đưa tới việc thành lập Chính phủ Lâm Thời đa đảng, trong đó Hồ Chí Minh (Cộng sản) làm Chủ Tịch, cụ Nguyễn Hải Thần (Việt cách) làm phó, cụ Huỳnh Thúc Kháng giữ Bộ Nội Vụ, Nguyễn Tường Tam (Đại Việt) giữ Bộ Ngoại giao, v.v...Chuyện gì xảy ra cho các đảng phái Quốc gia sau khi HCM ký Hiệp định sơ bộ với Pháp, ngày 6-3-1946, cho phép quân Pháp đỗ bộ lên Miền Bắc,  sau khi quân Trung hoa QDDD rút khỏi VN, mọi người đều đã rõ, thiết tưởng không cần nhắc lại ở đây.

Tháng tư 1975, tin tưởng có thể đối thoại với...người anh em phía bên kia, nhằm thành lập một Chính phủ 3 thành phần, bao gồm VNCH, MTGPMN và những người trong "lực lượng thứ 3", ông Dương Văn Minh đã nài nỉ xin "ông thầy" Trần Văn Hương (Tổng Thống kế nhiệm sau khi TT Thiệu từ chức) nhường cho chiếc ghế Tổng Thống. TT Trần Văn Hương, vị TT hợp hiến cuối cùng của VNCH, trong tình thế khó xử bèn đẩy sang Quốc hội, và QH đã tấn phong Dương Văn Minh ngay sau đó, một cách bất hợp hiến. Ngồi tại Dinh Độc Lập rồi, Big Minh, qua trung gian của Thượng tọa Thích Trí Quang, chỉ làm mỗi việc là...chờ, chờ "phía bên kia" đến để nói chuyện...hòa giải, hòa hợp. Trong khi đó, quân CS ngày càng áp sát Saigon. Và, chuyện gì phải đến đã đến chỉ mấy mươi tiếng đồng hồ sau đó. Ông Minh không hiểu rằng Việt cộng không bao giờ đối thoại khi đang ở thế mạnh.

Sau 30-4-1975, chỉ mấy tháng sau khi chiếm Saigon, tại Dinh Độc Lập, cũng có một cuộc đối thoại khác, rất ...hề, gọi là cuộc "Hiệp thương hai miền Nam-Bắc thống nhất đất nước". Cầm đầu phái đoàn Bắc Việt là Trường Chinh, Tổng Bí Thư Đảng Lao động VN (bấy giờ chưa đổi tên thành Đảng CSVN). Cầm đầu phái đoàn Miền Nam là Phạm Hùng (Bí thư Xứ Ủy Nam Bộ Đảng Lao động VN). Không ai nhắc tới Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Mặt Trận GPMN, hay Huỳnh Tấn Phát, Thủ Tướng Chánh phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam, với lá cờ nửa xanh nửa đỏ và chiêu bài Độc lập, Hòa bình, Trung lập...Thực tình mà nói, đây chỉ đơn thuần là một cuộc "đối thoại" giữa hai cha con nhà họ Cộng. Có thể tưởng tượng, trong vỡ tuồng hiệp thương đó, Cộng cha bảo Cộng con:"Mày hết việc rồi. Biến!". Là xong. Thằng con chết mất xác, không để lại dấu tích gì cả. Hạ màn!

TT Bush, Chính phủ Mỹ, các nhà kinh doanh Mỹ, dĩ nhiên muốn người Mỹ gốc Việt thôi chống CSVN. Dàn xếp được chuyện đó, giao thương Mỹ-Việt sẽ hết lấn cấn, Chính phủ cũng đỡ...nhức đầu, còn các nhà kinh doanh thì thoải mái làm ăn ở VN. Như trên đã nói, Đảng CSVN còn mơ ước chuyện đó hơn ai hết, bởi vì như vậy họ mới "nắm" được các cộng đồng người Việt hải ngoại. Mà nắm được cái...khúc ruột ngàn dặm rồi thì tha hồ làm giàu, tha hồ tiếp tục..."muôn năm trường trị". Còn người Việt tị nạn hải ngoại" Họ được gì" Được miễn visa khi về nước" Được mua nhà ở VN" Được mang tiền bạc, chất xám về đầu tư" Nói thật, chuyện miễn visa, mua nhà thì không ai ham, còn đầu tư thì...không dám. Cái gương Trịnh Vĩnh Bình, và vô số người khác nữa, vẫn còn nóng hổi. Nếu nói "khép lại quá khứ, hướng tới tương lai" thì tương lai đó là tương lai nào" Hơn 80 triệu dân trong nước còn chưa thấy chút ánh sáng tương lai nào, chưa biết sẽ còn bị bịt mắt, bịt miệng dẫn tới đâu trên con đường mờ mịt tiến lên CNXH, nói chi người Việt hải ngoại.  Không có tương lai nào cả, một khi cái Điều 4 trịch thượng còn nằm chình ình trong cái gọi là Hiến pháp của nước CHXHCNVN, cho phép Đảng CS áp đặt nền thống trị độc tài tàn bạo vĩnh viễn trên đất nước VN.
Là công dân Mỹ, người Mỹ gốc Việt rất thông cảm, rất biết ơn Tổng Thống, biết ơn Chính phủ, biết ơn các vị Đại sứ, về sự quan tâm của các vị đến vấn đề VN, nơi mà đồng bào ruột thịt của chúng tôi đang phải sống lầm than dưới ách thống trị bạo tàn của một trong vài con khủng long còn sót lại trên hành tinh nầy. Nhưng trong tình thế hiện nay, chúng tôi không có nhu cầu, cũng chưa thấy lý do chính đáng để đối thoại với đảng CSVN, cho tới khi nào cái điều 4 ác ôn ấy không còn nữa. Chừng đó may ra...

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình.Các con cần phải học, học và học… Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất hứa.
Tháng Tư lại trở về, gợi nhớ đến ngày cuối cùng, lúc toàn miền Nam rơi vào tay đoàn quân xâm lược từ phương bắc, lần này là lần thứ 45! Trong ký ức của mỗi người dân miền Nam chúng ta, có biết bao nhiêu khúc phim lại được dịp hiển hiện, rõ ràng và linh động như vừa mới hôm qua. Có người nhớ đến cảnh hỗn loạn ở phi trường Tân Sơn Nhất, có người không sao quên được những năm tháng tù tội trong trại giam cộng sản, có người nghẹn ngào ôn lại cảnh gia đình ly tán trong những ngày kinh hoàng đó, và có biết bao người còn ghi khắc mãi những ngày lênh đênh trên sóng nước mịt mù hay băng qua rừng sâu núi thẳm để tìm đến bến bờ tự do.
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” của nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm! Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai. Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn – vào năm 1960 – khi vừa mới biết cầm tiền? Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá được bào nhỏ nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản – hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát – đủ để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi
Chiến tranh Việt Nam có hai chiến trường: Đông Dương và Mỹ. Bắc Việt cố gắng kéo dài cuộc chiến trên chiến trường Việt Nam và đồng thời làm mệt mỏi công luận trên chiến trường Mỹ. Đứng trườc chiến lược này và kế thừa một di sản là sức mạnh quân sự, các tình trạng tổn thất và phản chiến đang gia tăng, Tổng thống Nixon cân nhắc mọi khả năng trong chính sách. Nixon quyết định chỉnh đốn các trận địa chiến cho miền Nam Việt Nam trong khi củng cố khả năng chiến đấu cho họ. Sự giảm bớt vai trò của chúng ta sẽ hỗ trợ cho công luận trong nước Mỹ. Trong thời gian này, Nixon cũng để cho Kissinger tổ chức mật đàm càng nhanh càng tốt.
Bất kỳ chiến lược nào để giảm bớt mối đe dọa từ các chính sách xâm lược của Trung Quốc phải dựa trên sự đánh giá thực tế về mức tác động đòn bẩy của Hoa Kỳ và của các cường quốc bên ngoài khác đối với sự tiến hóa bên trong nội bộ Trung Quốc. Ảnh hưởng của những thế lực bên ngoài đó có giới hạn về cấu trúc, bởi vì đảng sẽ không từ bỏ các hoạt động mà họ cho là quan trọng để duy trì sự kiểm soát. Nhưng chúng ta quả thực lại có những khí cụ quan trọng, những khí cụ này hoàn toàn nằm ngoài sức mạnh quân sự và chính sách thương mại. Điều ấy là những phẩm chất “Tự do của người Tây phương” mà người Trung Quốc coi là điểm yếu, thực sự là những sức mạnh. Tự do trao đổi thông tin, tự do trao đổi ý tưởng là một lợi thế cạnh tranh phi thường, một động cơ tuyệt vời của sự cách tân và thịnh vượng. (Một lý do mà Đài Loan được xem là mối đe dọa đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, chính là vì nó cung cấp một ví dụ với quy mô tuy nhỏ nhưng lại hùng hồn về sự thành công của hệ thống chính trị và kin
Nửa tháng trước hiệp định Genève (20-7-1954), trong cuộc họp tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Cộng), từ 3 đến 5-7-1954, thủ tướng Trung Cộng Châu Ân Lai khuyên Hồ Chí Minh (HCM) chôn giấu võ khí và cài cán bộ, đảng viên cộng sản (CS) ở lại Nam Việt Nam (NVN) sau khi đất nước bị chia hai để chuẩn bị tái chiến. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, Dương Danh Dy dịch, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt".) (Nguồn: Internet). Hồ Chí Minh đồng ý.
Đúng vậy, sau gần nửa thế kỷ năm nhìn lại vẫn thấy biến cố 30.04.1975 xảy ra quá bất ngờ đối với toàn thể dân VN chúng ta. Bằng chứng hiển nhiên là rất nhiều cấp lãnh đạo VNCH trong chánh quyền và trong quân đội không ngờ được nên đành phải bị bắt đi tù cải tạo cả hàng chục năm để rồi chết dần mòn trong rừng thiêng nước độc. Nói chi đến người dân bình thường thiếu thông tin của cả 2 miền Nam Bắc tất cả không ai cảm thấy hoặc đoán trước được chuyện sẽ xảy ra. Sự thực này chúng ta có thể đọc thấy rõ trên các tài liệu của 2 miền.
Chúng ta chỉ cần vài thập niên để có thể tạo dựng lại một nền kinh tế lành mạnh và hiệu quả nhưng e sẽ mất đến đôi ba thế hệ mới loại bỏ dần được những thói hư (và tật xấu) vừa nêu. Vấn đề không chỉ đòi hỏi thời gian mà còn cần đến sự nhẫn nại, bao dung, thông cảm (lẫn thương cảm) nữa. Nếu không thì dân tộc này vẫn sẽ tiếp tục bước hết từ bi kịch sang bi kịch khác – cho dù chế độ toàn trị và nguy cơ bị trị không còn.
Ôn dịch Vũ Hán gây nên một cơn khủng hoảng chưa từng thấy trong khối các nước nghèo khó khiến 100 quốc gia trong số 189 thành viên IMF hiện đang cầu cứu cơ quan quốc tế này viện trợ khẩn cấp. Tưởng cần nên tìm hiểu bối cảnh của những quốc gia đang phát triển song song với các phân tích về tác động của khủng hoảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã lộ rõ tâm địa chống dân chủ bằng mọi giá để kéo dài độc tài cai trị, làm giầu bất chính trên lưng người dân nhưng lại ngoan ngoãn cúi đầu trước hành động cướp đất, chiếm Biển Đông của Trung Cộng. Những việc này, tuy không mới, nhưng đã bung ra vào lúc đảng ra sức vận động cán bộ, đảng viên, kể cả cựu lãnh đạo và cựu chiến binh đóng góp ý kiến vào các Dự thảo văn kiện đảng XIII để khoe khoang.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.