Cùng vươn lên với nhịp sống kinh tế của cư dân quanh vùng, ngôi chùa dần dà theo năm tháng đã được khang trang hơn, nhưng vẫn cứ là ngôi chùa nhỏ, của một xóm nhỏ có tên là xã Bàu Cạn, thuộc huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
Xã Bàu Cạn vốn là thổ ngơi cằn cỗi của vùng kinh tế mới rừng thiêng nước độc, từng là vùng kinh tế tự túc hầu như biệt lập với các xã khác trong huyện, nay đã ổn định phần nào nhờ sự thông thương của đường sá và các phương tiện chuyên chở; nhưng dù sao, ở một nơi cách trở, xa thị tứ như vầy, đời sống người dân vẫn còn thiếu thốn nhiều mặt, và sự cúng dường tứ sự của phật-tử đối với chùa rất giới hạn.
Vì vậy có thể nói rằng, từ ngôi chùa mái tranh vách đất tiến đến mái ngói tường gạch là cả một chuỗi dài vất vả, khổ nhọc của ni chúng và phật-tử địa phương: xin gạch ngói vụn, rẻo, của lò gạch, túm vén tài chánh eo hẹp của chùa để mua cát và xi măng, rồi đem chính công sức của mình ra để dựng nên ni tự nhỏ bé, khiêm nhường nhưng không kém vẻ trang nghiêm hiện nay.
Hòa điệu với đời sống eo hẹp của dân chúng địa phương, Sư cô Liên Khai đã thiết lập một đời sống kinh tế tự túc ở chùa để tiếp nhận và nuôi dưỡng ni chúng trên hai mươi vị trong những năm qua. Ni chúng ở đây gồm có 5 vị tỳ-kheo-ni (kể luôn sư cô trụ trì), 4 vị sa-di-ni và 15 tiểu ni (ngũ giới sa-di-ni). Các sư cô trẻ đều được đi học. Một sư cô đang học cao cấp Phật học tại Huế; hai sư cô học trung cấp Phật học ở Biên Hòa; 4 sa-di-ni và các tiểu ni đều đi học trung cấp và tiểu học phổ thông ở các trường của huyện, xã. Để lo cho ni chúng được ăn học đầy đủ, chùa đã làm nhang bán tại chùa và gửi bán ở một số chùa quen cũng như tiệm tạp hóa ngoài chợ. Bằng vào cách sản xuất để tự túc duy nhất này, đã có những lúc chùa lâm vào cảnh khó khăn; nhưng nhờ sự vén khéo của sư cô trụ trì, với nếp sống đạm bạc của ni chúng, cũng như lòng quý mến qui ngưỡng của phật-tử địa phương dành cho chùa, khó khăn cách nào rồi cũng vượt qua được.
Cố nhiên những thiếu thốn về vật chất không phải là điều đáng bận tâm đối với người xuất gia chủ trương “tam thường bất túc” (ăn, mặc, ngủ không cần đầy đủ). Nhưng để thành tựu những phật-sự lớn hơn cho các sinh hoạt của một ngôi chùa, quả thật là điều trở ngại, khó khăn. Chẳng hạn, đúc một đại hồng chung để sớm hôm có tiếng chuông chùa thiền vị ngân dài khắp thôn xóm, trên thì thấu đến các cõi trời (thượng thông thiên đường), dưới thì xuyên đến những cõi địa ngục (hạ triệt địa phủ), không phải là việc đơn giản dễ dàng. Việc đúc một đại hồng chung thời nay, đối với các công trình xây dựng nguy nga đồ sộ của các chùa thành phố, thì chỉ là phật-sự nhỏ, thứ yếu. Nhưng đối với ngôi chùa nhỏ nơi xóm nhỏ xa xôi này, là cả một ước nguyện, một giấc mơ, mà nếu chùa phải dành dụm chắt mót bằng tiền bán nhang hàng ngày thì phải mất 20 năm nữa mới đủ để thỉnh một đại hồng chung! Mà liệu 20 năm sau, vật giá có còn giữ nguyên như hiện nay không, hay đến lúc đó lại phải tiếp tục dành dụm thêm 20 năm kế tiếp cho đủ số tiền đúc chuông"
Tiếng chuông chùa thật là gần gũi, không thể thiếu trong đời sống dân lành của mọi thời đại, mọi xứ sở, nhất là nơi quê hương hai ngàn năm gắn bó với đạo Phật. Chùa không chuông như xác không hồn, như thơ thiếu nhạc, như đàn thiếu giây, như người câm tiếng. Ở đô thị tiếng chuông có thể bị lấn át bởi bao tiếng động cơ của nhà máy, xe cộ; còn ở một xóm nhỏ vùng quê, sẽ được lắng nghe, đón nhận trọn vẹn hơn. Nơi đây, tiếng chuông chùa lân mẫn, vỗ về bao thân phận khốn cùng, khổ nhọc; đánh thức bao tâm hồn chìm đắm trong cuộc mộng nhân sinh. Tiếng chuông ngân buổi chiều, từ nhặt đến thưa, nhắc nhở một ngày qua đi, cuộc đời khép dần theo bóng hoàng hôn tàn úa. Tiếng chuông ngân buổi sớm với đồng vọng của tiếng gà gáy canh khuya, từ thưa đến nhặt, thúc giục hành giả tinh cần tu học, đánh thức dân làng chỗi dậy đón chào một ngày mới tinh khôi… Chuông chùa sớm hôm là tiếng nói của hồn dân tộc. Khi những người trong thôn xóm không có cơ hội đến chùa tụng kinh bái sám, tiếng chuông chính là sứ giả của Phật, cùng một lúc gửi đến muôn người, muôn nhà, nơi hẻm nhỏ, ở trường học, nơi chợ búa, đồng ruộng, hay nơi nương rẫy, rừng xa. Tiếng chuông chùa từng được đức Phật dùng để khai thị ngài A-nan trong kinh Thủ Lăng Nghiêm. Năng lực của âm thanh cũng được đức Quán-thế-âm triển khai qua pháp môn Quán-âm để thành tựu diệu dụng viên thông. Qua đó, với sự thành tâm chú nguyện, tiếng chuông không phải chỉ gửi đến ngàn người trong thôn xóm nhỏ, mà có thể siêu việt khắp pháp giới, cho đến những cõi tối tăm của địa ngục cũng nghe được (nguyện thử chung thinh siêu pháp giới, Thiết-vi u ám tất giai văn); và đối với hành giả quán niệm âm thanh theo pháp tu của đức Quán-thế-âm, tiếng chuông cũng có thể là phương tiện để xoay ngược về tánh nghe của mình.
Một cách tình cảm, thơ mộng và dễ cảm nhận hơn, chúng ta có thể đọc qua hai đoạn thơ trong bài “Nhớ Chùa” của thi sĩ Huyền Không, để thấy rằng tiếng chuông không thể thiếu khi nói đến chùa, nhớ về chùa:
Mỗi tối dân quê đón gió lành
Khắp chùa dào dạt ánh trăng thanh
Tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi
An ủi dân hiền mọi mái tranh
…
Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng
Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông.
Từ lợi ích thực tiễn đến lý tánh sâu xa, đại hồng chung quả thật là cần thiết phải có trong mỗi ngôi chùa, nhất là ngôi chùa nhỏ ở vùng hẻo lánh như Chùa Thanh Trì, nơi mà đời sống đạm bạc thanh cao của ni chúng lặng lẽ biểu lộ hạnh nguyện độ sanh của những sứ giả Như Lai thời mạt pháp. Lặng lẽ nhưng thật là hùng tráng. Vì ở đây, đạo hạnh của người xuất gia được thường trực trui luyện trong gian khó và trước những khốn khổ của dân tình xung quanh.
Tôi chắp tay cúi đầu, hướng về nơi ấy, cầu mong một ngày rất gần, ước nguyện nhỏ có được một quả chuông cho ngôi chùa nhỏ nơi xóm nhỏ, sẽ được tựu thành.
California, ngày 11 tháng 6 năm 2008
LỜI VIẾT THÊM:
Một cách cụ thể, người viết xin ghi lại nơi đây địa chỉ của Chùa Thanh Trì để chư tôn đức Tăng Ni và quý đạo hữu gần xa, trong nước hay ngoài nước, có thể liên lạc và ủng hộ trực tiếp đến Sư cô Thích nữ Liên Khai để tiến hành việc đúc một đại hồng chung cho Chùa.
Về ngân khoản để lo việc đúc chuông, theo Đại đức Thích Quảng Lộc, cách nay 3 năm, chùa Tăng Hội thỉnh một đại hồng chung 8 tạ (800 kí-lô) chỉ tốn khoảng 100 triệu đồng Việt Nam tính luôn giá treo chuông và tiền chuyên chở từ Huế vào Long Thành. Nhưng mới đây, theo Thượng tọa Thích Giác Đạo, đại hồng chung 4 tạ (400 kí-lô), cũng đúc tại Huế, thì giá thành hiện nay đã tương đương với đại hồng chung 8 tạ của 3 năm trước. Giá đồng hiện nay lên khá cao vì đồng khan hiếm. Thời giá bất thường cũng không biết phải vạch mức ngân quỹ cần có để vận động quyên góp như thế nào. Do đó, Sư cô Liên Khai thưa cùng chư tôn đức và quý đạo hữu rằng Chùa Thanh Trì sẽ “liệu cơm gắp chao” mà có quyết định về kích cỡ của chuông. Tùy nhân duyên đóng góp ủng hộ của chư tôn đức Tăng Ni và phật-tử mà đại hồng chung của Chùa sẽ lớn hay nhỏ. Nhưng trong ước nguyện của Sư cô thì quả chuông 5 tạ là quí lắm rồi, vừa đủ để ngân vang với bán kính một cây số từ tâm điểm Chùa Thanh Trì.
* Từ Châu Âu, Châu Úc, Canada, Việt Nam, xin gửi chi phiếu về:
Sư cô Thích nữ Liên Khai
Chùa Thanh Trì
Xã Bàu Cạn, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai
Việt Nam
Điện thoại: 84 0613553151
* Tại Hoa Kỳ, có thể gửi về:
Vĩnh Hảo
P.O. Box 374
Midway City, CA 92655 – USA
Tel.: (714) 350-3863
* Lưu ý:
Chi phiếu gửi trực tiếp Chùa Thanh Trì hoặc qua trung gian Vĩnh Hảo, xin đều ghi rõ: “cúng dường đại hồng chung Chùa Thanh Trì.” Quý vị cần khai thuế trên số tịnh tài cúng dường, xin gửi đến các chùa gần nhất để lấy ID tax, và nhờ chùa đó chuyển đến Chùa Thanh Trì, hoặc Vĩnh Hảo. Danh sách chư tôn đức và quý đạo hữu ủng hộ đúc chuông sẽ ghi vào Sổ Công Đức do Vĩnh Hảo giữ, và cũng sẽ công bố mỗi ngày (hoặc mỗi tuần) trên các websites Phật giáo nào cho phép đăng. Thành kính tri ân và kính chúc an lạc cát tường.