Hôm nay,  

Phải Biết Nhục Nhã Hôm Nay, Mới Có Vinh Quang Ngày Mai

01/11/200800:00:00(Xem: 7386)

Phải Biết Nhục Nhã Hôm Nay, Mới Có Vinh Quang Ngày Mai
Đỗ Văn Phúc
(Sóng Thần (VA), Việt Nam Hải Ngoại (NJ) và KBC Hải Ngoại (CA))
Có lần, một người bạn Mỹ, tưởng tôi là người Tàu, đã chào tôi bằng câu chào tiếng Tàu học lóm đâu đó. Tôi bỗng thấy bất mãn, lên tiếng đính chính: Tôi là người Việt Nam, Miền Nam Việt Nam!
Bốn chữ Miền Nam Việt Nam, tôi muốn nhấn mạnh rằng tôi là người Việt của một nước Việt Nam Cộng Hoà, chứ không dính dấp gì đến nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đương thời.
Dù rằng trong thời gian chiến tranh, bọn phản chiến, báo chí truyền thông khuynh tả tại Mỹ đã gán cho chế độ miền Nam những điều xấu xa nhất, chúng ta vẫn mang niềm tự hào của một dân tộc có văn hiến, có sức sống vươn lên và có khả năng thành đạt. Những năm sau chiến tranh, với sự trưởng thành của người Việt hải ngoại, và sự lộ diện bản chất của chế độ Cộng sản Việt Nam; người Mỹ nói riêng và thế giới nói chung, đã thay đổi rất nhiều trong cách nhìn về chế độ Cộng Hoà trước đây và chế độ Cộng sản hiện nay.
Do đó, khi Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt phát biểu rằng ông cảm thấy nhục nhã khi ra nước ngoài mà cầm trong tay tấm thông hành của nước CHXHCN; đó là ông đã can đảm nói lên tâm tư tình cảm chung của những người Việt biết tự trọng, có nhân cách.
Thế sự có lúc thăng, lúc trầm. Quốc gia có lúc thịnh, lúc suy. Thời hưng thịnh là thời có các vị minh quân, các nhà lãnh đạo các cấp có tài đức, biết chăm lo cho an sinh của toàn dân., phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng. Nhờ đó, bên ngoài thì yên, bên trong thì ấm. Thời suy vong là thời mà các cấp lãnh đạo u mê, ích kỷ, tham tàn chỉ lo phục vụ quyền lợi cá nhân bè đảng; mà người dân lại yếu hèn không dám phản kháng đấu tranh quyết liệt. Hậu quả là bị ngoại bang chèn ép, khinh khi; đất nước bị tụt hậu nghèo đói. Người công dân phải biết ý thức từng hoàn cảnh mà có những phản ứng thích nghi cũng như quyết tâm để phục hồi.
Đã biết ngẩng cao đầu khi đất nước vinh quang; thì cũng biết cúi đầu nhục nhã khi đất nước suy vi. Cúi đầu nhục nhã không phải là chấp nhận nó, mà phải làm sao cho thoát nỗi nhục này.
Những thời kỳ nước ta bị Tàu, Pháp đô hộ, nhục nhã trăm điều. Nhưng cha ông ta đã thấm thía nỗi nhục mà chấp nhận chiến đấu hy sinh để đất nước thoát vòng nô lệ; phục hồi quyền độc lập tự quyết, vươn lên trong cộng đồng thế giới.
Trong bài Hịch Tướng Sĩ của Đức Trần Hưng Đạo, và Bình Ngô Đại Cáo của Quân sư Nguyễn Trãi, hai vị anh hùng đã nêu lên nỗi nhục nhã của quan dân Việt trước sự hống hách tàn bạo của sứ nhà Nguyên (Thế kỷ 13) và nhà Minh (Thế kỷ 15) để khích động tinh thần dân tộc trong hai cuộc kháng chiến thần kỳ đánh đuổi quân Tàu xâm lăng.
Dưới sự cai trị của một tập đoàn gồm những con người kém cỏi về tri thức, khả năng; thấp kém về tư cách đạo đức, nước Việt mấy chục năm nay đã suy thoái một cách nghiêm trọng về mọi mặt. Trong tất cả các bảng xếp hạng về phát triển, văn minh, tự do dân chủ…do các cơ quan quốc tế thực hiện, thì hai chữ Việt Nam lúc nào cũng đứng ở những vị trí áp chót của hơn 170 quốc gia.


Trong nước thì toàn những tin về tham nhũng, hối lộ, suy đồi về đạo đức, sa sút về giáo dục. Nhà nước Cộng Sản mấy chục năm qua chỉ biết đàn áp, cướp bóc và sa đoạ. Quốc phòng thì yếu kém, chính trị thì độc tài, dựa dẫm vào quan thầy Trung Hoa, nên càng ngày càng bị bắt bí, mất đất, mất biển.
Khi các lãnh đạo nhà nước ra ngoại quốc, thì chỉ một luận điệu ăn xin rất hèn hạ. Đi đến đâu cũng thì bị đồng bào mình la ó, tẩy chay, lên án, xua đuổi.
Ngoài nước, qua các cơ quan truyền thông quốc tế, chỉ nghe đến hai chữ Việt Nam với những tin tức phóng sự đáng buồn - nói rõ hơn, ô nhục. Ngoại trừ những người Việt định cư tại hải ngoại, con dân từ trong nước Việt Nam đi ra ngoài thì bị nhà nước bán làm là lao nô,  làm gái điếm, buôn lậu, trộm cắp, mánh mung…Đã có những bản tin từ Malaysia về những đoàn du khách Việt Nam (mà hầu hết là cán bộ Cộng Sản hay vợ con họ) khi đến các siêu thị đã ăn cắp nhiều món hàng từ nhỏ đến lớn. Lao nô ở các nước hậu Cộng Sản thì mánh mung, đĩ điếm, băng đảng. Dân lao nô trốn ở lại qua các nước tư bản thì trồng, chế biến, mua bán ma túy ngay trong nhà. Phần lớn du học sinh là con cái cán bộ thì chỉ biết ăn chơi phung phí do có đồng tiền bóc lột mà cha anh họ tuồn qua.
Ngay chính người Việt hải ngoại cũng thấy xấu hổ lây.
Vậy trách chi người ngoại quốc có cái nhìn nghi ngờ, bất thiện (có thể nói là khinh khi) đối với những người đến nước họ bằng tấm thông hành của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Chỉ có những người Cộng Sản là không biết thấm thía nỗi nhục này, nên vẫn cứ vênh váo, khoác lác, phô trương. Giống như hình ảnh các cán binh Việt Cộng vào các thành phố miền Nam sau ngày 30 tháng Tư, 1975. Chúng tôi không muốn nhắc ra đây chuyện đã xảy ra từ hơn ba mươi năm trước. Nhưng có lẽ không ai có thể quên được cái nhìn vừa thương hại vừa coi rẻ của nhân dân miền Nam trước các cán binh khoác lác, ngông nghênh, tự đắc; của những người tự cho là "chiến thắng" mà thực chất thì quá thấp kém mọi mặt so với đồng bào miền Nam.
Không, người dân không xấu hổ, nhục nhã nếu chỉ vì nghèo đói, lạc hậu, kém tri thức. Vì đó là nỗi nhục của nhà cầm quyền, là hệ quả của chính sách phản động của họ. Không phải lỗi người dân.
Chỉ xấu khi không biết đó là nhục mà vẫn cứ huyênh hoang. Đây là trường hợp bọn cầm quyền.
Chỉ xấu khi biết đó là nhục mà cúi đầu chấp nhận, không một ý hướng phản kháng để đạt đến điều vinh. Đây là trường hợp của những người dân thiếu ý thức dân tộc, thiếu lòng tự trọng.
Qua rất nhiều bài báo gửi ra từ trong nước hay các buổi tham luận trên các diễn đàn online; chúng tôi đã nghe rất nhiều thanh niên, trí thức Việt Nam trong nước đã tỏ ra vô cùng ray rứt trước hiện trạng nước nhà.
Và đây là lần đầu tiên, một người Việt Nam yêu nuớc có lòng tự trọng, Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, đã chính thức nói ra sự thật trước mặt nhà cầm quyền Cộng Sản tại Hà Nội: "Tôi cảm thấy nhục nhã khi mang tấm hộ chiếu Việt Nam" (phải được hiểu là Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam).
Nỗi nhục nhã này, hoàn toàn do tội lỗi của Hồ Chí Minh và tập đoàn đảng Cộng Sản Việt Nam.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Kể từ khi tổ chức khủng bố Hamas tấn công vào Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, các vụ xung đột đẫm máu xảy tại Dải Gaza cho đến nay vẫn chưa kết thúc. Nhưng gần đây, cộng đồng quốc tế còn tỏ ra lo ngại nhiều hơn khi giao tranh giữa Israel và lực lượng dân quân Hezbollah ở Lebanon đang gia tăng. Bằng chứng là sau cái chết của thủ lĩnh Hamas Ismail Haniya và thủ lĩnh Hezbollah Hassan Nasrallah, tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Trong vài tháng qua, người dân Mỹ, dù muốn hay không muốn, cũng đã có nhiều cơ hội để nhìn về một bức tranh mà trong đó có quá nhiều sự tương phản. Những mảnh ghép từ hai tầm nhìn, hai chiến lược, hai mục đích hoàn toàn khác biệt đã dần dần rơi xuống, để lộ ra hai con đường hoàn toàn khác biệt cho người Mỹ lựa chọn. Dù có một bức màn đã rơi xuống (như nữ hoàng Oprah Winfrey đã ví von) cho một thuyền trưởng bước ra, trao lại cho người dân sự hy vọng, lòng tin, trách nhiệm, thì sâu thẳm bên trong chúng ta vẫn muốn biết, những giá trị thực của một triều đại đã mang lại. Từ đó, niềm tin sẽ được củng cố.
Bi hài kịch “ngoại giao cây tre”, với hoạt cảnh mới nhất là “cưỡng bức đặc xá”, đã giúp chúng ta nhận ra rằng, dẫu khác nhau nước lửa, “phóng sinh” và “hiến tế” vẫn có thể hội tụ ở ý nghĩa “triều cống” khi phải chiều lòng hai cường quốc ở hai đầu mút của hai hệ tư tưởng trái ngược nhau. Để đẹp lòng bên này thì phải nhẫn tâm “hiến tế”, mà để làm hài lòng bên kia thì phải diễn tuồng “phóng sinh” để có một dáng dấp khai phóng, cởi mở. “Chiến lược ngoại giao” này, phải chăng, là một trò chơi “ăn bù thua” mà, diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học của Game Theory, là có tổng bằng không?
Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Bẩy mươi năm đã qua nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện: “Tên địa danh thuộc tỉnh Lai Châu, nơi diễn ra trận đánh quyết liệt của quân và dân ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm thực dân Pháp kéo dài 55 ngày đêm”.
JD Vance đã chứng tỏ một “đẳng cấp” khác, rất “Yale Law School” so với thương gia bán kinh thánh, giày vàng, đồng hồ vàng, Donald Trump. Rõ ràng, về phong cách, JD Vance đã tỏ ra lịch sự, tự tin – điều mà khi khởi đầu, Thống đốc Walz chưa làm được. Vance đã đạt đến “đỉnh” của mục tiêu ông ta muốn: lý trí, ôn hoà, tỉnh táo hơn Donald Trump. “Đẳng cấp” này đã làm cho Thống Đốc Tim Walz, người từng thẳng thắn tự nhận “không giỏi tranh luận” phải vài lần phải trợn mắt, bối rối trong 90 phút. Cho dù hầu như trong tất cả câu hỏi, ông đã làm rất tốt trong việc phản biện lại những lời nói dối của JD Vance, đặc biệt là câu chất vất hạ gục đối thủ ở phút cuối: “Trump đã thua trong cuộc bầu cử 2020 đúng không?” JD Vance đáp lại câu hỏi này của Tim Walz bằng hàng loạt câu trả lời né tránh và phủ nhận sự thật. Và dĩ nhiên, rất “slick.” “Trump đã chuyển giao quyền lực rất ôn hoà.” Cả thế giới có thể luận bàn về sự thật trong câu trả lời này.
Phải nhìn nhận rằng chuyến đi đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đến Mỹ đã được giới chức ngoại giao Việt Nam thu xếp để ông gặp được nhiều lãnh đạo, xem như xã giao ra mắt để hợp tác, hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lãnh vực trong tương lai. Bài diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc chỉ lặp lại các chính sách đối ngoại của Hà Nội, nên không được truyền thông quốc tế chú ý nhiều như các diễn văn của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky và Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, là đại diện cho những quốc gia trực tiếp liên can đến các xung đột ở Trung Đông, ở Ukraine mà có nguy cơ lan rộng ra thế giới. Ông Lâm mới lên làm chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Đảng Cộng sản được vài tháng, sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, nên ông muốn dịp đến Liên Hiệp Quốc là dịp để thể hiện vai trò lãnh đạo của mình và nhấn mạnh đến chính sách ngoại giao du dây của Hà Nội.
Sự bất mãn lan rộng với các hệ thống thuộc chủ nghĩa tư bản hiện tại đã khiến nhiều quốc gia, giàu và nghèo, tìm kiếm các mô hình kinh tế mới. Những người bảo vệ nguyên trạng tiếp tục coi Hoa Kỳ là một ngôi sao sáng, nền kinh tế của nước này vượt xa châu Âu và Nhật Bản, các thị trường tài chính của nước này vẫn chiếm ưu thế hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, công dân của nước này cũng bi quan như bất kỳ công dân nào ở phương Tây.
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.