Hôm nay,  

Vài Dòng Với Anh Bùi Ngọc

17/10/200900:00:00(Xem: 7071)

Vài Dòng Với Anh Bùi Ngọc
Anh Bùi Ngọc

Tam Giang HOÀNG ĐÌNH BÁU   
Tôi biết anh Bùi Ngọc từ năm 1999 khi có một người bạn giới thiệu tôi với anh để nhờ anh sửa chữa và layout một truyện ngắn của tôi vừa viết xong. Lúc đó anh là chủ bút Nguyệt san Công giáo tại Orange County, miền Nam California. Từ đó tuần nào tôi cũng đến nhà anh chơi và bàn chuyện viết lách. Anh quen với anh Tạ Thạc trước tôi và gia nhập Văn Đàn Đồng Tâm cũng trước tôi và rồi chúng tôi trở nên thân thiết.
Anh Thiệp (tên thật của nhà văn Bùi Ngọc) là con người ít nói, trầm tỉnh và thích giúp đỡ bạn bè. Anh luôn khuyến khích tôi viết, vì thế mới có tuyển tập truyện ngắn “Bước Chân Bên Họng Súng” của tôi và anh xuất bản năm 2003. Đến năm 2004, anh và tôi lại viết “Biển Vẫn Rạt Rào” cùng với Tạ Thạc, Minh Triệu, và Hoàng Sa.
 Cuối tuần tôi thường đến nhà anh ở thành phố Santa Ana, nơi đây anh có một khu vườn phía trước trồng hoa, phía sau trồng đủ loại cây ăn trái như cam, quit, bưởi, chanh, mảng cầu xiêm, táo rất sum xuê. Hằng ngày anh ra vườn vun xới, tưới tỉa chu đáo như anh đã chăm sóc những bài viết của anh một cách cẩn thận trước khi gửi cho các báo mà anh đang cộng tác. Anh viết hằng trăm truyện ngắn và tùy bút. Anh viết mà không hề biết mệt, vì thế bắt đầu từ năm 1997 anh đã cho ra tập truyện ngắn và tùy bút “Thu lượm những lá vàng” và sau đó cứ mỗi năm anh đều cho ra một tác phẩm mới cho đến năm 2005 anh đã có  tác phẩm thứ  bảy “Lạc đường vào hạnh phúc” để trình làng. Anh tâm sự: “ Viết là nguồn vui chứ không phải để kiếm sống. Mỗi lần in xong một cuốn sách mới tôi đều giao cho nhà sách Tự Lực, chỉ giữ lại một số ít để tặng các bạn bè thân quen mà thôi”. Với nhà sách Tự Lực, anh không bao giờ đòi hỏi điều kiện nào cả. Cứ vài tháng nhà sách Tự Lực lại gửi tiền bán sách cho anh. Anh vui mừng gọi tôi đến để khoe thành quả và chúng tôi lại cùng nhau ra quán Factory nhâm nhi những tách cà phê nóng.
Có lần tôi hỏi anh:
- Làm sao anh viết nhiều và nhanh vậy"
Anh trả lời:
- Thường ngày tôi xem phim truyện truyền hình Mỹ hay phim truyện truyền hình Á Châu, nếu có những tình tiết gây xúc cảm, tôi sẽ ghi những điều đó xuống giấy và bắt đầu tưởng tượng một câu chuyện khác gần giống như vậy nhưng hợp với xã hội và phong tục Việt Nam hơn. Tôi viết và sửa bài trên computer nên vài ba ngày là xong một truyện ngắn hay một tùy bút.
Tôi lại hỏi:
- Tôi đọc trong các tác phẩm của anh có những điều hơi khác với đời thường. Ví dụ mẹ ghẻ ít khi thương con chồng, còn anh thì mẹ ghẻ lại thương con chồng hơn mẹ thật. Hoặc cha dượng lại thương con của vợ như con của chính mình.
Anh trả lời không ngần ngại:
- Tôi thích viết như vậy bởi vì ngoài đời lâu lâu cũng có những chuyện như vậy. Không ai bênh mẹ ghẻ thì tôi bênh mà bênh thì phải nói cho ra lẽ. Ý của tôi là thích viết ngược lại. Như trong truyện ngắn ‘Bàn tay của mẹ’ tôi tạo một câu chuyện đứa con gái trở về với mẹ nuôi sau một thời gian ở với mẹ ruột vì nó không tìm được cái thoải mái, hứng thú, ấm cúng như nơi gia đình người mẹ nuôi mà nó đã sống qua bao nhiêu năm.
  Anh qua Mỹ năm 1975. Trước năm 1975 anh là giáo sư Anh văn và Việt văn các trường trung học tại thành phố Sài gòn như trường trung học Hồ Ngọc Cẩn, Hưng Đạo và anh cũng có một thời gian phục vụ cho đài phát thanh Gươm Thiêng Ái Quốc do ông Vũ Quang Ninh làm giám đốc. Cũng từ đây anh yêu cô thư ký người Huế và sau nầy là vợ của anh. Anh say sưa nói với tôi điều bí mật nầy khi tôi hỏi:
- Anh là người Bắc, chị là người Huế. Mối tình đó như thế nào"
Anh trả lời ngay cả lúc có chị bên cạnh:
- Trước khi tôi yêu bà xã tôi, tôi cũng đã yêu hai người con gái khác nhưng không thành. Đến khi làm cho đài phát thanh tôi gặp bà cũng làm thư ký cho đài phát thanh. Chỉ mới quen lần đầu tôi đã mê mệt giọng nói của bà. Tiếng Huế sao mà quyến rũ và mượt mà đến thế!
 Tôi lại hỏi:
- Đến nay đã gần 50 năm chung sống, anh cảm thấy thế nào với những rung cảm ban đầu ấy"
 Anh say sưa nói:
- Đối với tôi, giọng nói của người con gái Huế tuyệt vời nhất là tiếng ‘dạ’ không nơi nào sánh được. Ở quê tôi cũng có tiếng ‘dạ’ nhưng không hiểu sao tiếng dạ, tiếng thưa của các cô gái Huế lại ấm áp, nhỏ nhẹ, dịu dàng và gợi cảm đến thế. Lúc đó mỗi khi  nói chuyện với nhà tôi ở sở là đêm về tôi không sao ngủ được. Với vóc dáng cao, thân gầy, luôn mặc chiếc áo lụa màu trắng làm tôi ngây ngất, bắt tôi phải tỏ tình ngay và chẳng bao lâu chúng tôi thành hôn. Nay chúng tôi đã có hai trai ba gái và các cháu đều có gia đình và thành đạt.
Tôi hỏi tiếp:
- Trong số các cháu, có ai nối nghiệp của bố không"
Anh không ngần ngại trả lời:
- Chẳng những không nối nghiệp mà cũng chẳng có đứa nào chịu đọc sách của bố viết nữa.
- Tại chúng không biết tiếng Việt hay tại lý do gì"


- Chúng nói được tiếng Việt nhưng đọc được tiếng Việt thì không. Bởi vậy cộng động người Việt ở hải ngoại cần phát huy thêm các trường Việt ngữ mới mong duy trì văn hoá Việt Nam tại hải ngoại lâu dài được.
- Ngoài viết lách, anh còn thú vui gì vào lúc tuổi già"
Anh cười:
- Tôi thích sống bên gia đình cùng con cháu và mảnh vườn nho nhỏ nầy. Tôi nghĩ không đâu bằng gia đình và không nơi nào đẹp và thoải mái bằng gia đình.
Đúng vậy! Từ ngày qua Mỹ năm 1975 và định cư tại Nam California đến nay anh chị chỉ biết làm việc, nuôi dạy con cái và chưa bao giờ rời khỏi nơi đây. Anh không thích đi du lịch, ít bạn bè và cũng ít khi đi ăn ngoài. Đến năm 2007, anh cho mướn căn nhà ở  Santa Ana và đến ở nhà người con trai vùng Fountain Valley. Căn nhà nầy mới và lớn hơn căn nhà cũ nhưng anh nói với tôi anh thích căn nhà cũ hơn vì nơi đó có bóng cây xanh, có những nụ hoa hồng mà anh đã bỏ công vun tưới. Hằng năm cứ đến mùa trái cây, tôi lại đến chở anh về nhà cũ để thâu hoạch. Tôi thích nhất là hồng và táo tàu. Anh và tôi hái đầy xe mới về nhà, anh chẳng lấy trái nào, tôi đem về chia cho bạn bè và hàng xóm.
Đầu năm 2008 anh viết lách chậm lại và đến cuối năm chị Bùi Ngọc cho tôi biết anh phải vào bệnh viện Fountain Valley vì bệnh phổi. Tôi đến thăm anh ngay, một tuần sau anh trở về nhà. Chúng tôi vẫn thường xuyên giữ liên lạc. Đến đầu năm 2009 anh lại vào bệnh viện do phổi có nước. Bác sĩ đã cho chạy ‘chemotherapy’ nhiều lần. Chị cũng cho tôi biết bác sĩ nói anh bị ung thư phổi ở thời kỳ cuối. Anh về nhà, tôi đến thăm liền và  anh cho tôi biết anh cảm thấy mệt và khó thở.
Một hôm tự nhiên anh gọi tôi với giọng yếu ớt:
- Anh Báu. Năm kia anh đau chân có phải là triệu chứng của ‘stroke’ không"
Tôi ngạc nhiên nhưng nhớ lại có lần tôi không bước lên bậc tam cấp được và bác sĩ gia đình bảo đó cũng là triệu chứng của bệnh ‘stroke’. Tôi liền trả lời anh:
- Đúng. Đó cũng là một triệu chứng. Còn anh sức khoẻ bây giờ thế nào"
Anh Bùi Ngọc không trả lời mà tự ý cúp điện thoại. Tôi nghĩ anh muốn nói gì đó  với tôi nhưng vì quá yếu nên anh không thể nói thêm được nữa.
Sáng hôm sau, chị Bùi Ngọc nói chuyện với tôi trên điện thoại và bảo rằng anh nhắc đến tôi khi ăn sáng ‘oatmeal’ vì tôi thường nói với anh là tuổi già ăn ‘oatmeal’ rất tốt cho tiêu hóa. Đến trưa tôi chợt nhớ đến anh và điện thoại cho anh thì người con dâu ở bên kia đầu dây điện thoại  trả lời:
- Thưa bác, ba cháu vừa mới mất và xe cấp cứu đang đưa ba cháu vào bệnh viện.  Đó là ngày 2-5-2009.
      Tôi bủn rủn tay chân. Tôi không ngờ anh ra đi sớm như vậy. Nhớ lại ngày hôm qua anh đã gọi tôi và muốn nói với tôi một điều gì nhưng không thể nói được và mới đây tôi lại gọi anh đúng vào lúc anh vừa ra đi. Phải nói rằng đó là điều không thể giải thích. Nhưng  riêng tôi, tôi nghĩ rằng có thể đó là sự đồng cảm của tình bạn thắm thiết, thân thương giữa anh và tôi. Suốt gần mười năm quen thân chúng tôi chưa có một điều gì phiền trách nhau. Chúng tôi mến nhau và tôn trọng nhau hơn cả anh em ruột thịt.
Có một điều an ủi và bớt đau thương tiếc nuối đến với tôi là anh đã từ giã gia đình và bạn bè khi bước qua tuổi thất thập cổ lai hy.
 Anh Bùi Ngọc! Tôi đã mất anh, một người bạn chân tình đáng quý. Trong tôi, mãi mãi vẫn còn hình dáng cao dong dỏng, khuôn mặt lớn, nước da đen bánh mật, giọng nói ấm áp và nhất là nụ cười hiền dịu để lộ hàm răng trắng của anh.
Hôm ở nhà thờ Saint Polycarp, thành phố Garden Grove, tôi đại diện Văn Đàn Đồng Tâm gửi vòng hoa thương tiếc anh và phân ưu cùng chị và các cháu. Đi ngang quan tài, tôi thấy anh nằm đó, mặt mày, da thịt vẫn như hôm nào. Tôi nói nhỏ bên anh: “Anh Thiệp, anh đi ngủ trước tôi. Anh sống không thẹn với lương tâm, chết được mọi người thương tiếc, vậy là quý lắm.”
 Ngày hôm sau tôi đưa anh ra nghĩa trang Forest Lawn tại thành phố Cypress ở miền Nam California. Buổi tiễn đưa anh về nước Chúa được cử hành theo nghi thức Công giáo với sự tham dự đầy đủ gia đình hai bên nội ngoại và con cháu cùng bè bạn. Chị Thiệp nhắc người điều hành buổi lể cho phép tôi được lên trước đọc điếu văn. Tôi đại diện VĐĐT lên nói lời từ biệt người bạn văn đã hết mình với nền văn học hải ngoại, hết mình với bạn bè và gia đình. Anh đã để lại cho nền văn học Việt Nam hải ngoại những tác phẩm giá trị. Anh còn là một người cha, một người chồng gương mẫu và đạo đức. Những đại diện có mặt hôm đó cũng lên nói lời chia buồn cùng chị và các các cháu nhưng hầu như ai cũng nhắc nhở đến nụ cười hiền hậu luôn gắn trên môi anh.
 Nụ cười của anh là hình ảnh cuối cùng khắc sâu trong tâm trí tôi khi tôi bỏ nắm đất và nhánh hoa hồng xuống chiếc quan tài màu đỏ xậm mà anh yên nghỉ trong đó. Anh về bên kia thế giới vẫn còn mang theo nụ cười!
Vĩnh biệt và thương mến anh Bùi Ngọc!
 Tam Giang HOÀNG ĐÌNH BÁU

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong bối cảnh thế giới đang trải qua những biến động nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và công nghệ, toàn cầu hoá – vốn từng được xem là động lực chính thúc đẩy cho tăng trưởng và thịnh vượng – đang đứng trước những thách thức chưa từng có. Tiến trình công nghiệp hoá và toàn cầu hoá đã đem lại nhiều thành tựu vượt bậc trong suốt thời gian dài qua, từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, đặc biệt là thông qua sự chuyên môn hoá, tự do thương mại và tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, các cuộc khủng hoảng tài chính, đại dịch toàn cầu, chiến tranh và cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc đã khiến mô hình toàn cầu hoá truyền thống bộc lộ nhiều tình trạng bất ổn...
Nhiều thế hệ sống ở Sài Gòn những năm của thập niên 80-90, khi con gà trống của Thương Xá Tax chưa bị bức tử, khi những hàng cây cổ thụ trên đường Tôn Đức Thắng vẫn là nét thơ mộng của Sài Gòn, có lẽ đều quen thuộc với câu “Chương Trình Truyền Hình Đến Đây Là Hết…” Nó thường xuất hiện vào cuối các chương trình tivi tối, khi chưa phát sóng 24/24. Thời đó, mỗi ngày truyền hình chỉ phát sóng trong một số khung giờ nhất định (thường từ chiều đến khuya) nên hầu như ai cũng có tâm lý chờ đợi đến giờ ngồi trước màn ảnh nhỏ, theo dõi vài giờ giải trí. Đó cũng là chút thời gian quên đi một ngày cơ cực, bán mồ hôi cho một bữa cơm độn bo bo thời bao cấp. Nhắc nhớ chút chuyện xưa, để nói chuyện nay, đang diễn ra ở một đất nước văn minh hàng đầu, từng là niềm mơ ước của biết bao quốc gia về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận.
Trên mạng gần đây lan truyền một bức tranh chuỗi tiến hóa ngược nhại kiểu Banksy - vẽ hình ảnh tiến hóa quen thuộc từ khỉ tiến tới người, nhưng đến giữa chặng đường, một gương mặt ai cũng nhận ra quay lưng đi ngược lại về phía khỉ. Cái dáng ngoảnh đầu ấy khiến tôi chạnh lòng nghĩ đến hình ảnh nước Mỹ hôm nay. Giữa thế kỷ XXI, lẽ ra phải tiếp tục đi tới, nhưng thay vì mở rộng tự do học thuật – ngọn nguồn của sáng tạo – chúng ta lại thấy những dấu hiệu nước Mỹ thoái lui theo một quỹ đạo lạ lùng: thử nghiệm một kiểu “tiến hóa ngược”.
Từ khi Tối Cao Pháp Viện lật đổ Roe v. Wade, chúng ta đều biết câu chuyện không dừng lại ở đó. “Để tiểu bang tự quyết” chỉ là cái cớ. Và Texas, tiểu bang bảo thủ dẫn đầu, vừa chứng minh điều đó bằng một luật mới: trao cho bất kỳ ai quyền săn lùng và kiện những người dính dáng tới thuốc phá thai. Texas vốn đã có một trong những lệnh cấm khắc nghiệt nhất: phá thai bị cấm hoàn toàn, trừ vài ca y tế khẩn cấp. Không ngoại lệ cho thai dị tật chết non. Không ngoại lệ cho hiếp dâm. Không ngoại lệ cho loạn luân. Thế nên, nhiều phụ nữ Texas chỉ còn con đường tìm đến thuốc phá thai qua mạng, thường từ những nhà cung cấp ở ngoài tiểu bang. Luật mới nhắm thẳng vào cánh cửa mong manh ấy.
Suốt 250 năm, người Mỹ đồng ý rằng cai trị bởi một người duy nhất là sai lầm, rằng chính quyền liên bang vốn cồng kềnh, kém hiệu quả. Lẽ ra hai điều ấy đủ để ngăn một cá nhân cai trị bằng mệnh lệnh từ Bạch Ốc. Nhưng Trump đang làm đúng điều đó: đưa quân vào thành phố, áp thuế quan, can thiệp vào ngân hàng trung ương, chen vào quyền sở hữu công ty, gieo nỗi sợ để buộc dân chúng cúi đầu. Quyền lực bao trùm, nhưng không được lòng dân. Tỉ lệ chấp thuận của ông âm 14 điểm, chỉ nhỉnh hơn chút so với Joe Biden sau cuộc tranh luận thảm hại năm ngoái. Khi ấy chẳng ai lo ông Biden “quá mạnh”. Vậy tại sao Trump, dù bị đa số phản đối, vẫn dễ dàng thắng thế?
Có bao giờ bạn nói một điều rõ ràng như ban ngày, rồi nghe người khác nhắc lại với nghĩa hoàn toàn khác? Bạn viết xuống một hàng chữ, tin rằng ý mình còn nguyên, thế mà khi quay lại, nó biến thành điều bạn chưa từng nghĩ đến – kiểu như soi gương mà thấy bóng mình méo mó, không phải bị hiểu lầm, mà bị người ta cố ý dựng chuyện. Chữ nghĩa, rơi vào tay kẻ cố ý xuyên tạc, chẳng khác gì tấm gương vỡ. Mỗi mảnh gương phản chiếu một phần, nhưng người ta vẫn đem mảnh vỡ đó làm bằng chứng cho toàn bộ bức tranh. Một câu, một đoạn, một khẩu hiệu – xé khỏi bối cảnh trở nên lệch lạc – hóa thành thứ vũ khí đâm ngược lại chính ý nghĩa ban đầu. Câu chuyện của đạo diễn Trấn Thành gần đây là một minh họa. Anh chỉ viết đôi dòng thương tiếc chia buồn với sự ra đi của nghệ sĩ đàn bầu Phạm Đức Thành. Vậy thôi. Thế mà lập tức bị chụp mũ, bêu riếu, bị gọi “3 que,” “khát nước,” “Cali con.” Người ta diễn giải đủ kiểu, vẽ ra đủ cáo buộc: từ tội mê văn hóa Việt Nam Cộng Hòa đến tội phản quốc.
Sau thất bại trước đối thủ đảng Dân Chủ Joe Biden trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020, nội các “gia đình trị” của Donald Trump gần như biến mất khỏi chính trường. Các đồng minh không thể có cùng tiếng nói với Trump, nhất là sau vụ bạo loạn Quốc Hội Jan 06. Duy nhất một người vẫn một lòng trung thành không bỏ rơi Trump, đó chính là Stephen Miller. Nhiệm kỳ hai của Trump, người được cho là có quyền lực hơn trong vòng tròn thân cận của Trump, hơn cả JD Vance, chẳng ai khác hơn chính là Stephen Miller. Để tạo ra những ảnh hưởng chính trong chính quyền Trump hôm nay, Miller đã có một đường dài chuẩn bị, khôn ngoan và nhẫn nại.
Đầu tháng 8 năm 2025, Tổng thống Donald Trump đã ký một mệnh lệnh đặc biệt, chỉ đạo các cơ quan hữu trách lập kế hoạch đưa quân đội Hoa Kỳ đi trấn áp các tổ chức tội phạm ở Mỹ Latinh. Khoảng hai tuần sau, mệnh lệnh đã thành hiện thực. Ba khu trục hạm có gắn phi đạn viễn khiển (guided-missile destroyers) của Hoa Kỳ đã được khai triển tới vùng biển Venezuela, đảm trách việc chặn giữ các chuyến hàng ma túy.
Một góc khuôn viên của Đồi Capitol sáng Thứ Tư là những câu chuyện tưởng đã bị chôn vùi, nay được kể ra trong sự run rẩy, xúc động và cả nước mắt. Trước hàng chục ống kính truyền thông chiếu trực tiếp trên toàn quốc, khoảng mười người phụ nữ lần lượt kể ra câu chuyện của chính mình – nạn nhân của Jeffrey Epstein, tỷ phú tội phạm tình dục và buôn bán mại dâm trẻ vị thành niên. Ngày đó, những phụ nữ này chỉ vừa 16, 18 tuổi, nhỏ nhất là Marina Lacerda, 14 tuổi.
Ở đời, chẳng có ngai vàng nào là miễn phí. Muốn hỏi cưới công chúa thì phải có sính lễ. Làm gì có chuyện đi tay không mà cuỗm được gái đẹp — trừ trường hợp dùng quyền lực bẩn thỉu cưỡng hiếp gái tơ (nghe quen quen). Muốn làm đàng anh đàng chị không thể vừa keo kiệt vừa đòi được người ta kính nể. Quy luật xưa nay không đổi ăn khế thì phải trả vàng. Ngai vàng toàn cầu cũng vậy -- không chỉ làm bằng vàng, mà còn bằng chi phí, lời hứa, và trên hết, là sự tín nhiệm.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.