Hôm nay,  

Châu Á Phục Hồi Nhanh

04/11/200900:00:00(Xem: 7266)

Châu Á Phục Hồi Nhanh

Nguyễn Xuân Nghĩa & Mai Vân RFI

Nhưng chỉ bền vững nếu cải cách và chuyển hướng...
Ngày 29/10/2009, Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF công bố dự báo về kinh tế Châu Á Thái Bình Dương với một số nhận định tương đối lạc quan. Tăng trưởng kinh tế khu vực sẽ là 5,75% trong năm 2010, so với 2,75% dự kiến năm nay. Trong lúc đó thì tăng trưởng các quốc gia nhóm G7 chỉ là 1,25% cho năm tới.
Nếu trước đây, các nền kinh tế Châu Á bị tác hại nặng nề, có khi nặng nề hơn những nước ở ngay trung tâm khủng hoảng, thì giờ đây Châu Á dẫn đầu thế giới ra khỏi khủng hoảng. Năm nay, Trung Quốc tăng trưởng khoảng 8,5%, còn năm tới đây, theo dự báo của IMF sẽ lên 9%. Nhật Bản cũng sẽ tăng trưởng trở lại vào năm 2010, tuy ở mực khiêm tốn, 1,75%, trong khi năm nay kinh tế thụt lùi xuống mức - 5,5%.
Các nước ASEAN, như Thái Lan, Malaysia, Philippines, mà kinh tế cũng thụt lùi trong năm 2009, cũng sẽ tăng trưởng trở lại, 2,5% đối với Malaysia, 3,5% cho Phillipines và Thái Lan 3,7%. Riêng Indonesia và Việt Nam có tăng trưởng cao hơn : từ 4,6 % năm 2009, Việt Nam sẽ đạt 5,3% vào năm 2010. Indonesia, từ 4% năm nay, sẽ nhích lên 4,8%.
Trong bản cập nhật về kinh tế Đông Á, công bố ngày 04/11, Ngân hàng thế giới cũng nêu bật đà phục hồi của Á Châu.
Về nguyên nhân giúp các nước Châu Á phục hồi nhanh như thế, IMF nêu lên bối cảnh thương mại và tài chính toàn cầu hoạt động bình thường trở lại, nhưng định chế này cũng khen ngợi các quốc gia Châu Á đã biết nhanh chóng đưa ra các đối sách hữu hiệu trên mặt tiền tệ, tài chính, kích thích kinh tế. Nhìn chung trong bối cảnh kinh tế toàn cầu vẫn chưa sáng sủa, trường hợp kinh tế Châu Á khả quan hơn là một hiện tượng đáng khích lệ.
Tuy nhiên bên cạnh những đánh giá tích cực trên, Quỹ tiền tệ Quốc tế cũng đưa ra những lời khuyến cáo rất đáng quan tâm. Đó là khu vực này vẫn phải cảnh giác về chính sách kích thích kinh tế, cần triệt để cải cách về cơ chế, chuyển hướng kinh tế, thích nghi với tình hình mới của thế giới, với nhu cầu của các thị trường xuất khẩu truyền thống của họ (Hoa Kỳ, Châu Âu…) sụt giảm. Nói cách khác, châu Á phải chú trọng hơn đến thị trường nội điạ.
Có làm như thế thì mới hy vọng duy trì được một mức tăng trưởng cao trong lâu dài trong khung cảnh kinh tế toàn cầu có nhiều thay đổi. Theo IMF, đà tăng trưởng tương đối khả quan hiện nay vẫn còn bấp bênh.
Trong phần trả lời RFI, kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghiã phân tích cụ thể hơn về bài toán nói trên : về những nguyên nhân giúp các quốc gia Châu Á, trong đó có Việt Nam, vươn lên, cũng như những khó khăn phải vượt qua để duy trì được đà tăng trưởng, như khuyến cáo của IMF. Ngoài ra, chuyên gia Nguyễn Xuân Nghiã, cũng đánh giá là nếu không kể đến Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, tình hình kinh tế những nước còn lại của Châu Á không khả quan như người ta nghĩ..
Sau đây là toàn văn bài phỏng vấn (03/11/2009):
RFI: Quỹ Tiền tệ Quốc tế công bố dự báo về kinh tế châu Á Thái Bình Dương với nhiều thẩm định lạc quan hơn về triển vọng cho năm tới, cụ thể là sẽ đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 5,75% vào năm tới so với vỏn vẹn có 2,75% trong năm nay. Cảm tưởng chung là dường như trong các khu vực kinh tế toàn cầu, Á châu đang bật dậy sớm hơn cả. Xin đề nghị anh phân tích cho những yếu tố nào đã khiến Á châu hồi phục mạnh hơn nơi khác "
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi xin được nói về bối cảnh trước rồi mình lần lượt xoáy vào từng khía cạnh đặc thù. Á châu là khu vực rộng lớn và đa diện với rất nhiều khác biệt. Nó gồm có cường quốc kinh tế thứ nhì thế giới là Nhật, ở trong nhóm thất hùng đã công nghiệp hóa là khối G-7 nhưng hiện chưa ra khỏi suy trầm.
Khi các định chế quốc tế nói tới kinh tế Á châu, ta nên hiểu là họ thường không kể Nhật Bản. Á châu cũng có Ấn Độ với hơn một tỷ dân và kinh tế tương đối ít bị chấn động, nhưng không thuộc Đông Á. Khu vực Đông Á thì có các nền kinh tế "tân hưng" mới nổi, như Nam Hàn, Đài Loan, có thể kể cả đại gia Trung Quốc và nhiều nước Đông Nam Á như Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái Lan.
- Sau cùng, Á châu cũng có các nền kinh tế gọi là "có lợi tức thấp", như Việt Nam, Lào, Cam Bốt, Bangladesh, Mông Cổ, v.v... Vì vậy, khi nói về Á châu, ta có khá nhiều trường hợp cá biệt nhưng trong chương trình này, có lẽ mình tập trung vào các nước tân hưng vì có sức mạnh kinh tế đáng kể, và sẽ chú ý riêng vào trường hợp Việt Nam.
- Thứ hai, trước khi Hoa Kỳ bị khủng hoảng tài chính năm ngoái và gây ra trận suy thoái toàn cầu, trước tiên là trong nhóm G-7 đó thì kinh tế Mỹ đã bị suy trầm từ cuối năm 2008 sau bảy năm tăng trưởng liên tục. Khi cơn chấn động manh nha từ đầu năm 2008, người ta đã tưởng là kinh tế Á châu, đặc biệt là các nước tân hưng Đông Á, đã tách khỏi ba đầu máy tăng trưởng gọi là nhóm G-3 - là Mỹ, Âu Châu và Nhật Bản - vì đã có nội lực riêng sau mấy thập niên phát triển. Chuyện ấy không xảy ra, Á châu vẫn bị kéo vào suy thoái và chìm xuống đáy, nhưng lại bật lên sớm nhất. Các định chế quốc tế như Quỹ Tiền tệ hay Ngân hàng Thế giới đang nói về sức bật đó.
RFI: Thưa anh, những động lực nào đã tạo ra sức bật đó" Nhờ chính sách cấp cứu kinh tế hay nhờ họ buôn bán với nhau nhiều hơn là với các nước đã công nghiệp hoá, như ba đầu máy G-3 hay nhóm G-7 của Tây phương "
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Một trong những động lực chính là bài học của vụ khủng hoảng kinh tế Đông Á năm 1997-1998 khiến các nước trong khu vực đều biết sợ nên cố xây dựng nền móng vĩ mô lành mạnh hơn, cụ thể là quân bình công chi thu trong ngân sách quốc gia và một khối dự trữ ngoại tệ tương đối khả quan. Nhờ nền móng ấy, khi nạn suy thoái bùng nổ, họ có thể tung ra nhiều biện pháp cấp cứu mạnh bạo về ngân sách như tăng chi để kích thích sản xuất, và về tiền tệ như hạ lãi suất và bơm thêm tín dụng vào kinh tế. Những biện pháp ấy đã phần nào bù đắp mức thất thâu khi các thị trường xuất khẩu vào khối G-3 đều co cụm.
- Khi khủng hoảng tài chính bùng nổ tại Hoa Kỳ rồi lan qua Âu Châu thì tư bản bị đông lạnh, tín dụng bị ách tắc nên các nước có tiền này bèn triệt thoái tư bản về để cấp cứu ở nhà khiến đầu tư vào các nước Đông Á cũng giảm mạnh. Nhưng nhờ các nước Đông Á đã gom sẵn một lượng dự trữ ngoại tệ dồi dào hơn sau vụ khủng hoảng 10 năm trước nên họ vẫn còn ngoại tệ để tung vào thị trường hầu tránh một vụ khủng hoảng ngoại hối vì xuất cảng với đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đều giảm. Đó là tình hình chung, nhưng hoàn cảnh mỗi nước lại có những dị biệt.


RFI: Khi xuất cảng vào các nước công nghiệp hoá đều giảm thì các nước Đông Á đã có thể bán hàng cho nhau mà bù đắp vào sự thiếu hụt ấy hay không"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Hiện tượng ấy có nhưng không đồng bộ vì hoàn cảnh khác biệt của từng nước. Trước hết, cả Quỹ Tiền tệ Quốc tế lẫn Ngân hàng Thế giới đều nhận định là Trung Quốc đã ráo riết kích cầu và tìm lại mức tăng trưởng cao hơn cả nên trở thành một đầu máy cho các nền kinh tế kia. Thật ra hai định chế này đều có thói quen đánh giá kinh tế Trung Quốc một cách lạc quan - mà tôi thiển nghĩ là thái quá, nhất là trường hợp của Ngân hàng Thế giới.
- Các nước xuất cảng khoáng sản hay sản phẩm đệ nhất đẳng như nguyên nhiên liệu, thì quả là có bán được hàng cho Trung Quốc. Nhưng đa số các nước này đều thuộc thành phần có lợi tức thấp nên không phải là nhờ vậy mà kinh tế Đông Á nói chung đã đụng đáy và phục hồi sớm hơn cả. Các nước bán hàng chế biến thì chưa thể trông cậy vào việc bán hàng cho Trung Quốc mà ra khỏi suy thoái. Họ tìm sức bật ở nơi khác.
- Nói chung thì ngoài Trung Quốc, Ấn Độ và Nam Hàn, tình hình kinh tế Á châu chưa khả quan như người ta nghĩ. Chẳng hạn như nếu không kể đà tăng trưởng hơn 8% của Trung Quốc thì bình quân còn lại của các nước Đông Á khó có thể đạt 5,7 hay 5,8% như Quỹ Tiền tệ dự báo, mà chỉ ở khoảng 2-3% thôi và còn thấp hơn các nước Trung Đông hay Nam Á, trong đó có Ấn Độ. Một số nước nghèo, trong đó có Việt Nam với tốc độ tăng trưởng 5%, thật ra chưa ra khỏi cảnh ngộ ngặt nghèo. Vì vậy tôi mới phải dài dòng nói về những khác biệt trong khố kinh tế Á Châu.
RFI: Thưa anh, báo cáo của Quỹ Tiền tệ có nhấn mạnh là đà tăng trưởng tương đối khả quan này thật ra vẫn còn bấp bênh, nghĩa là không đều, và nhất là thiếu bền vững, tức là không kéo dài. Nguyên nhân là vì sao" Và muốn có đà tăng trưởng bền vững thì các nước này phải làm gì"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Nguyên nhân về thời cơ hay chu kỳ -là trong thời gian ngắn hạn một hai năm - đầu máy kinh tế của nhóm G-7 vẫn còn yếu với tăng trưởng bình quân chỉ ở khoảng 1,25% một năm vào năm tới. Lý do là sau nạn suy thoái vừa qua, giới tiêu thụ Âu Mỹ bị cháy túi nên tiêu xài ít đi và kinh tế cũng nhập cảng ít đi. Vì vậy sẽ không giúp gì nhiều cho các nước xuất cảng tại châu Á, ít ra trong một hai năm.
- Nguyên nhân thứ hai thuộc về hoàn cảnh nội tại của các nền kinh tế Á châu. Đó là chưa có trớn tăng trưởng đủ mạnh để khỏi cần tới lực đẩy của chính quyền, tức là nếu các biện pháp kích cầu mà chấm dứt là kinh tế sẽ lại bị suy trầm, đình trệ. Cũng vì vậy, Quỹ Tiền tệ Quốc tế mới khuyến cáo các chính quyền là phải cảnh giác để nếu cần và nếu có thể thì tiếp tục duy trì biện pháp kích thích kinh tế, nghĩa là vẫn phải tống ga, nếu không, cỗ xe sẽ dừng.
- Nguyên nhân thứ ba thuộc về cơ chế và có ý nghĩa trường kỳ, là các nền kinh tế Á châu phải tìm ra lực đẩy nội tại từ khu vực tư doanh và khả năng tiêu thụ của thị trường nội địa thay vì mong chờ bán hàng cho Mỹ cho Âu hoặc nhờ cậy vào chính sách kích cầu của nhà nước. Đây là thử thách lớn nhất cho châu Á vì phải quan niệm lại toàn bộ chiến lược phát triển và cơ chế sản xuất. Không riêng gì các định chế quốc tế như Quỹ Tiền tệ hay Ngân hàng Thế giới, mà nhiều quốc gia trong nhóm G-20 là 20 nền kinh tế mạnh nhất thế giới đã nói đến yêu cầu "quân bình hoá toàn cầu". Nghĩa là các nước giàu, nhất là Hoa Kỳ, cần tiêu thụ ít đi và tiết kiệm nhiều hơn trong khi các nước Đông Á nên tiêu thụ nhiều hơn để mở rộng thị trường nội địa lấy thị trường này làm đầu máy tăng trưởng hơn là thị trường xuất cảng.
RFI: Tức là sau nhiều thập niên thắt lưng buộc bụng để xuất cảng với giá thật rẻ, nay các nước Đông Á được khuyến cáo là nên cởi hầu bao và tiêu xài nhiều hơn hầu thị trường tiêu thụ nội địa sẽ thúc đẩy sản xuất "
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa đúng như vậy và đấy mới là bài toán không dễ giải quyết vì phải chuyển hóa nền kinh tế từ chiến lược hướng ngoại về hướng nội. Nghĩa là đầu tư mạnh hơn vào hệ thống giao thông và phân phối nội địa, đầu tư tinh tế hơn vào giáo dục và tay nghề, khai thông ách tắc luât lệ để tư doanh nội địa dễ tham gia sản xuất, mở rộng mạng lưới an sinh xã hội và trợ giúp y tế để người dân khỏi e sợ bất trắc mà duy trì mức tiết kiệm quá cao. Và trước hết, dừng duy trì tỷ giá đồng bạc nội địa quá thấp để tìm lợi thế cạnh tranh khi xuất cảng với giá rẻ mà nên điều chỉnh hối suất này cho cao hơn để khỏi gây thiệt thòi lợi tức của người dân.
RFI: Câu hỏi cuối thưa anh, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới nhận định ra sao về trường hợp Việt Nam "
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Họ ngợi khen Việt Nam đã quyết liệt ban hành chính sách kích thích kinh tế qua tăng chi, giảm thuế và nhất là bơm tín dụng, và còn cho rằng ngân khoản kích cầu thực tế có lẽ cao hơn con số chính thức rất nhiều và nhờ vậy mà kinh tế đã tăng trưởng khả quan, bình quân có thể là 5,5% cho cả năm nay.
- Tuy nhiên, họ cũng cảnh báo Việt Nam bốn chuyện nên thận trọng. Thứ nhất, sẽ bị bội chi ngân sách quá cao do số thu thì giảm vì sinh hoạt kinh tế bị đình đọng mà số chi lại tăng quá mạnh vì biện pháp kích cầu. Thứ hai, lượng tín dụng quá lớn bơm vào kinh tế có thể thổi lên bong bóng đầu cơ mà không rót vào đúng nơi cần cứu là tiểu doanh nghiệp tư nhân, lại còn làm hệ thống ngân hàng ôm vào một gánh nợ xấu khiến nhiều cơ sở tài trợ mất lời và bị rủi ro. Thứ ba, nguồn thu ngoại tệ suy giảm vì nhập siêu quá lớn, đầu tư nước ngoài và tiền gửi của thân nhân ở ngoài về đều sụt mạnh nên Việt Nam sẽ bị khó khăn về ngoại hối, dự trữ ngoại tệ chỉ còn hơn 16 tỷ vào tháng Tám vừa qua. Sau cùng, tình trạng nghèo đói đã gia tăng vì sinh hoạt kinh té đình trệ mà mạng lưới an sinh và cứu trợ xã hội vẫn còn quá thô sơ.
- Tổng kết lại, tôi nghĩ rằng bội chi ngân sách tới hơn 9% tổng sản lượng nội địa sẽ thu hẹp khả năng tăng chi cho yêu cầu an sinh xã hội trong khi tín dụng cấp phát quá nhiều lại không cứu đúng đối tượng cần cứu và khi nguồn tín dụng này được giảm thì nhiều trái bóng đầu cơ sẽ xì hoặc bể, thí dụ như trên thị trường chứng khoán vào cuối năm nay và bất động sản vào năm tới. Trong khi đó, tín dụng ào ạt vẫn có thể gây ra hậu quả lạm phát từ cuối năm nay trở đi.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.