Hôm nay,  

Tín Hiệu Xanh

04/12/200700:00:00(Xem: 8962)

Từ giữa năm 2006 đến cuối năm 2007, Hà Nội đã tạo được nhiều thành công trên lãnh vực thương mại và bang giao quốc tế. Khởi đầu với sự thành công của Thượng Đỉnh APEC, sau đó là trở thành hội viên của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới, rồi gần đây nhất là việc thành công trong nỗ lực để trở thành thành viên Không Thường Trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.

Với những thành công như thế, Hà Nội một mặt phải tiếp tục tô vẽ cho một chế độ đang trên đà băng hoại với tệ nạn tham nhũng, cường hào ác bá, bóc lột dân nghèo của giới lãnh đạo Cộng Sản, một mặt phải tìm cách bứng rễ một phong trào tranh đấu non trẻ nhưng không kém phần cương quyết vừa mới xuất hiện tại Việt Nam.

Năm 2006 là thời điểm khởi động của những phong trào tranh đấu cho dân chủ tại Việt Nam. Từ là những cá thể hoạt động riêng biệt, những nhà tranh đấu cho dân chủ đã tụ hợp lại. Lần đầu tiên, họ hoạt động trong tổ chức, và trong khoảng thời gian rất ngắn đã tạo được sự hậu thuẫn của thế giới đối với một phong trào dân chủ vừa chớm nở tại Việt Nam. Từ là những người không ai biết đến, nay cả thế giới đều biết đến Khối 8406 như là một tổ chức tranh đấu cho dân chủ tại Việt Nam.

Song song với sự xuất hiện của phong trào tranh đấu cho dân chủ bằng phương pháp bất bạo động, giới công nhân Việt Nam cũng dần dần ý thức được quyền của họ. Những cuộc đình công lan rộng của công nhân Việt Nam trong năm đã làm cho Hà Nội lúng túng không biết giải quyết ra sao. Theo đà phát triển của phong trào công nhân đình công lan rộng từ Nam ra Bắc, lần đầu tiên, tại Việt Nam xuất hiện những nhà hoạt động công đoàn độc lập, và họ tranh đấu đòi hỏi quyền tự do lập hội để bảo vệ quyền người lao động. Vì không biết giải quyết vấn đề như thế nào, Hà Nội đã dùng vũ lực để đàn áp và giam giữ những nhà hoạt động công đoàn độc lập. Tuy luôn bị Hà Nội dùng côn đồ và công an đe dọa, giới công nhân tại Việt Nam vẫn tiếp tục tổ chức đình công để đòi hỏi sự công bằng trong lương bổng và quyền được đối xử với đầy đủ nhân phẩm. Điều đáng xấu hổ cho Hà Nội là khi những giám đốc hoặc quản lý ngoại quốc ra tay đánh đập công nhân Việt Nam tàn nhẫn, thì cả guồng máy cai trị đã im lặng.

Chính giới Hoa Kỳ đã gọi lãnh đạo Hà Nội như là những kẻ lừa dối vì trước khi được trở thành hội viên của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới, Hà Nội đã hứa hẹn rằng sẽ tôn trọng nhân quyền và đối kháng. Thế nhưng Hà Nội đã bung ra một chiến dịch bức hại các nhà hoạt động dân chủ có quy mô mà tổ chức Human Rights Watch đã cho là "một cuộc đàn áp tệ hại nhất". Những quốc gia tự do có tòa đại sứ tại Việt Nam đã cùng một lúc lên án hành động này của Hà Nội.

Hoa Kỳ tuy có nhiều triển vọng hợp tác kinh tế và quân sự với Việt Nam, nhưng chính quyền Hoa Kỳ cũng đã phản ứng mạnh mẽ trước sự dối trá của Hà Nội. Tháng 10 năm 2007, Hạ Viện Hoa Kỳ đã thông qua và chuyển lên Thượng Viện dự luật Nhân Quyền cho Việt Nam 2007.

Ngoài Hoa Kỳ, Liên Minh Âu Châu cũng đã có hành động để lên án những hành động bạo lực của Hà Nội đối với đối kháng và tôn giáo tại Việt Nam. Vào ngày 15 tháng 11 năm 2007, Liên Minh Âu Châu đã công bố Nghị Quyết lên án vị phạm tự do tôn giáo tại Việt Nam và một số quốc gia khác.

Để tỏ thái độ ủng hộ phong trào tranh đấu cho tự do và dân chủ tại Việt Nam của đồng bào tại quốc nội và hải ngoại, Tổng Thống Hoa Kỳ George Bush, Chủ Tịch Quốc Hội Hoa Kỳ đã gặp gỡ đại diện của những tổ chức tranh đấu của người Việt để bày tỏ sự ủng hộ của họ trước khi chính quyền Hoa Kỳ tiếp đón Nguyễn Minh Triết.

Với những bạo lực trong tay, Hà Nội luôn sẵn sàng trừng phạt những con người Việt Nam can đảm nói lên tiếng nói của sự thật để lật tẩy những cái hào nhoáng dối trá của chế độ. Thế nhưng bạo lực đã không làm chùn tấm lòng của những con người Việt Nam thuộc nhiều thành phần tôn giáo và xã hội đứng lên đòi lại quyền làm người.

Với những chiến dịch đàn áp và giam giữ những nhà đối kháng tại Việt Nam, Hà Nội nhiều phần tự tin là họ sẽ nhổ tận gốc rễ phong trào tranh đấu còn non trẻ, nhưng tin tức về việc Tiến sĩ Nguyễn Quốc Quân, nhà báo Nguyễn Thị Thanh Vân và Ông Trương Văn Ba bị bắt khi họ trở về để hoạt động tại quốc nội từ Hoa Kỳ và Pháp đã mở thêm một cái nhìn mới về công cuộc tranh đấu giải phóng cho dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam.

Cả thế giới, và ngay cả chính Hà Nội, có lẽ đã quen thuộc và cho là bình thường khi những nhà hoạt động dân chủ tại Việt Nam bị đàn áp vì họ đang sinh sống dưới sự cai trị của chế độ, nhưng khi con dân Việt Nam từ hải ngoại trở về để hoạt động trong lòng kẻ thù của dân tộc đã hóa giải những âm mưu độc ác của Hà Nội nhằm tạo sự hận thù giữa đồng bào tại quốc nội và hải ngoại.

Trong nhiều năm qua, Hà Nội luôn luôn nỗ lực tuyên truyền rằng người Việt Nam tại hải ngoại là phản bội tổ quốc với mục đích tạo sự thù hận giữa các thành phần dân tộc Việt. Sự trở về của Tiến sĩ Nguyễn Quốc Quân, nhà báo Nguyễn Thị Thanh Vân và ông Trương Văn Ba đã bắc một nhịp cầu liên kết giữa người Việt Nam với người Việt Nam mà không cần phải qua tay chế độ. Nói một cách khác, hành động anh dũng của 3 nhân sự kể trên đã tước đi quyền lực của Hà Nội vì Hà Nội xưa nay phải nhất định kiểm soát và chi phối tất cả các sinh hoạt trong mọi lãnh vực và khía cạnh của xã hội Việt Nam.

Ý nghĩa thứ hai của việc trở về của 3 nhân sự kể trên cũng là một sự xác quyết hùng hồn nhất đối với nhân dân Việt Nam và các nhà tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam rằng các đảng viên Việt Tân luôn luôn sẵn sàng sát cánh với họ để cùng chung lực tranh đấu vì một tương lai tươi sáng cho Việt Nam.

Hà Nội đã bỏ nhiều nỗ lực để dán nhãn "khủng bố" cho Việt Tân và những tổ chức tranh đấu cho dân chủ của người Việt tại hải ngoại, nhưng khi truyền thông quốc tế cho thấy đảng viên Việt Tân bị chế độ bắt giữ khi họ chỉ đơn thuần hoạt động với những phương tiện bất bạo động, thì chính Hà Nội sẽ bị cả thế giới xem như là kẻ bức áp phong trào bất bạo động.

Vậy điều gì thôi thúc những con người dũng cảm kia sẵn sàng từ bỏ sự an nguy của bản thân để cùng với đồng bào của họ tại quốc nội cùng chung xây dựng một ước mơ cho ngày mai" Điều gì khiến cả một chế độ có quân đội, công an, báo chí và được quốc tế công nhận như Hà Nội lại phải lo sợ trước sự xuất hiện của những con người ấy"

Câu trả lời được diễn tả bởi Luật sư Lê Quốc Quân khi ông viết: "Người quyết định việc nắm bắt hay không cơ hội đó là tuổi trẻ chúng ta. Thang giá trị sống bị đảo lộn thì chúng ta phải lập lại. Khi phong bì tràn ngập công sở, đổ bộ vào cả giảng đường và bệnh viện, thì lớp trẻ chúng ta cùng siết tay, dồn đuổi tệ nạn đến tận cùng. Khi đâu đó có bạn đang mệt mỏi buông xuôi, thì nơi đây những ngọn lửa của màu xanh yêu thương và hi vọng sẽ thắp lên, động viên nhau giữ vững tinh thần. Khi xu hướng vọng ngoại đang lên cao, thì nơi đây chúng ta truyền cho nhau tinh thần tự tôn dân tộc và ý thức về dòng máu Việt vinh quang... Tuổi trẻ chúng ta sẽ tự làm những sứ giả, với trái tim nóng và cái đầu đầy lý trí, lần tìm nhau, giục giã nhau tiến bước dựng xây đất nước mình".

Cùng chung nhịp cầu của tình tự dân tộc với Lê Quốc Quân, và cùng chung một niềm tin mãnh liệt vào con người Việt Nam với một xác tín vững chãi vào một tương lai tươi sáng của dân tộc, Tiến sĩ Nguyễn Quốc Quân, nhà báo Nguyễn Thị Thanh Vân và ông Trương Văn Ba và nhiều đảng viên Việt Tân khác từ hải ngoại đã lần tìm nhau và họ đang tự làm những sứ giả để gửi đi những tín hiệu màu xanh của yêu thương và hy vọng để cùng tiến bước dựng xây đất nước họ.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.