Hôm nay,  

Việt Nam: Kinh Tế Lâm Nguy; Đảng Báo Động Thất Nghiệp Tăng Cao 3 Triệu Năm 2009

26/12/200800:00:00(Xem: 9113)

VIỆT NAM: KINH TẾ LÂM NGUY; Đảng Báo Động Thất Nghiệp Tăng Cao 3 Triệu Năm 2009

Phạm Trần
Hoa  Thịnh Đốn - “Trái với những tuyên bố ban đầu rằng cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng ít tới Việt Nam, giờ đây Chính phủ đã có những hành động và quyết sách thể hiện sự nhận thức về tình hình thị trường kinh tế diễn biến phức tạp. Như vậy là rất đáng hoan nghênh.”
Đó là phê bình của Kinh tế gia có đầu óc thực tế hàng đầu của Việt Nam, Tiến sỷ Lê Đăng Doanh, trong cuộc phỏng vấn của Hương Lan  đăng trên  Báo Tuần Việt Nam  ngày 19-12-2008.
Nhưng thời gian  có nhiều “quan chức” đảng lạc quan tếu  như thế  sau khi  nền kinh tế  Mỹ  đã bắt đầu  nếm mùi  khủng hoảng tài chính từ tháng 2 có phải  là một  dự đoán khôn ngoan, hay vì không biết nên cứ nói bừa để bây giờ giẫy không kịp "
Năm 2008, Chính phủ Việt Nam  đã đưa ra  8 nhóm giải pháp nhằm kiềm soát lạm phát đe dọa có thể lên tới 30%, trong đó có các biện pháp gỉam chi, đình chỉ nhiều kế họach xây dựng cơ bản từng gây lãng phí công qũy đã cạn kiệt.
Ngày 18/12/2008, đảng Cộng sản Việt Nam khoe trên báo Điện tử của mình : “ Lạm phát đã được đẩy lùi, kinh tế vĩ mô cơ bản được giữ ổn định, an sinh xã hội được đảm bảo, giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao. Để đạt được kết quả đó là nhờ vào chủ trương đúng đắn và sự thống nhất cao trong lãnh đạo của Đảng, sự điều hành quyết liệt của cả hệ thống chính trị và toàn nhân dân.”
Tại cuộc họp của Chính phủ hồi tháng 11, Nhà nước  còn  cương lên : “ Trong tháng 10 tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đã lan rộng đến các nền kinh tế lớn và đang có xu hướng lan rộng sang các nước đang phát triển. Đối với nước ta, những tác động của kinh tế thế giới chưa bị ảnh hưởng nhiều, do đó các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của tháng 10 có những chuyển biến tích cực như: Lạm phát bước đầu đã được kiềm chế, giá tháng 10 giảm 0,19% so với tháng 9; thu hút vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng; hoạt động dịch vụ diễn ra sôi động; thu ngân sách đạt khá, một số lĩnh vực xã hội có chuyển biến tích cực. Cụ thể, giá trị sản xuất công nghiệp tháng 10 ước đạt 55,6 nghìn tỷ đồng, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm trước; cả nước đã thu hoạch được 2.228,7 nghìn ha lúa hè thu, tăng 16,7%; khách du lịch quốc tế tăng 3,5%; kim ngạch xuất khẩu đạt 5.100 triệu USD giảm 3,3% và nhập khẩu đạt 5.800 triệu USD tăng 5,2% so với tháng USD; vốn đầu tư nước ngoài thực hiện tăng 38,3%...”
Nhưng thực tế không lạc quan đến  như thế, bởi vì mới hồi tháng 5, nhiều Đại biểu Quốc hội đã chỉ trích nhà nước chi tiêu vô tội vạ làm cho tình trạng lạm phát tăng mau làm khổ dân.
Báo Tuổi Trẻ ngày 06/05 (2008 ) viết : “ Trong hội thảo về bội chi ngân sách do Ủy ban Tài chính - ngân sách Quốc hội tổ chức ngày 5-5, các chuyên gia kinh tế cho rằng việc Chính phủ chi tiêu quá mức là một yếu tố gây lạm phát và cần được cắt giảm. Chính phủ đã chi tiêu vượt quá mức tiền thu vào tới 6,6% GDP, không phải ở mức 5% như Quốc hội cho phép, theo cách tính của Quĩ Tiền tệ quốc tế (IMF).”
Bài báo của Trần Lê Thùy viết tiếp : “ Nguyên nhân của lạm phát cao có một phần quan trọng của chính sách tài khóa lỏng lẻo trong những năm qua, thể hiện ở bội chi ngân sách tăng liên tục qua các năm" - tiến sĩ Lê Quốc Lý, vụ trưởng Vụ Tài chính tiền tệ (Bộ Kế hoạch - đầu tư), cho biết tốc độ tăng bội chi ngân sách trong tám năm trở lại đây giữ ở mức cao 17-18%/năm. Bộ Kế hoạch - đầu tư nói lạm phát có một phần đóng góp của bội chi ngân sách. Năm 2001, chi ngân sách 26,5% GDP, đến nay xấp xỉ 40%, tăng rất cao.”
 “Ông Lý nhấn mạnh: "Vấn đề đặt ra hiện nay là việc rà soát, cắt giảm chi tiêu ngân sách nhà nước chưa cần bằng việc đề ra các tiêu chí, tiêu chuẩn để cắt bỏ, đình hoãn những công trình đầu tư kém hiệu quả”.
Trong khi đó nhiều ngàn  công nhân, đa số từ nông thôn ra thành phố làm việc, đã rủ nhau hồi hương, dù chưa biết phải làm gì, sau khi nhiều công ty nước ngoài làm ăn thua lỗ đã không thể tăng lương cho công nhân.  Trong khi vật giá cứ tiếp tục leo thang vào những tháng cuối năm và giá thuê nhà, tiền cơm cũng tăng làm cho nhiều công nhân cho biết họ làm không đủ  nuôi thân mà còn gánh thêm nhiều món nợ nên đành khăn gói hồi cư.
Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội lực lượng lao động cả nước khoảng trên 47 triệu người.  Nhưng số người có nghề chuyên môn vẫn thiếu nên mức thất nghiệp vẫn còn cao.
Theo Nguyễn Đại Đồng, Cục trưởng việc làm của Bộ này thì số người thất nghiệp của Việt Nam năm 2009 sẽ tăng vào khỏang 3 triệu do ảnh hưởng của tình trạng kinh tế xuống dốc.
Vậy số lao động hy vọng được xuất khẩu có khá hơn đồng nghiệp trong nước không "
Lý Hà trả lời  trên Thời báo Kinh tế ngày 18-12 (2008): “Các thị trường xuất khẩu lao động chính của Việt Nam hiện đều gặp khó khăn. Vậy chỉ tiêu 90.000 lao động xuất khẩu trong năm 2009 do Quốc hội giao liệu có thực hiện được"
Trả lời câu hỏi này, Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Nguyễn Thanh Hòa nói:
- Tình hình chắc chắn có khó khăn, nhưng ta có thuận lợi là có rất nhiều thị trường (hiện ta có khoảng 500.000 lao động làm việc ở trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ). Nếu quyết tâm thì ta vẫn hoàn thành mục tiêu xuất khẩu 90.000 lao động của năm 2009.”
 “ Tuy nhiên, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới nên xuất khẩu lao động của Việt Nam năm nay cũng bị tác động. Đơn hàng mới tại nhiều thị trường giảm đáng kể. Các thị trường thu hút nhiều lao động thu nhập cao như Hàn Quốc, Malaysia, tốc độ tiếp nhận lao động Việt Nam nói riêng và lao động các nước nói chung là chậm hẳn.”
Bài báo cũng cho biết: “ Năm 2008, cả nước giải quyết việc làm cho 1,35 triệu lao động, trong đó thông qua các chương trình kinh tế xã hội là 1,1 triệu, xuất khẩu lao động 85.000. 4 thị trường xuất khẩu lao động trọng điểm của Việt Nam là: Đài Loan (33.000), Hàn Quốc (16.000), Malaysia (7.800) và Nhật Bản (5.800).”
Trước bối cảnh lao động trong và ngoài nước bấp bênh vì ảnh hưởng suy thóai kinh tế tòan cầu, đảng CSVN nhìn nhận : “Trong những tháng gần đây, tình hình kinh tế thế giới diễn biến nhanh, phức tạp và khó lường. Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động trực tiếp đến kinh tế nước ta, làm cho sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu giảm sút, ảnh hưởng đến việc làm và đời sống nhân dân.”
 NGUY CƠ  NGẬP ĐẦU
Võ Hồng Phúc, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư viết trên Tạp chí Công sản Số 24 (168) năm 2008 : “ Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã và sẽ ảnh hưởng đến một số hoạt động của kinh tế nước ta, nhưng mức độ tác động không lớn như các nước đang phát triển khác.”


Riêng trong lĩnh vực  thương mại, Phúc cho rằng : “Cuộc khủng hoảng đã và đang gây ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu Việt Nam sang thị trường Mỹ, Nhật Bản và châu Âu. Đây là những thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam.
Ngay từ những tháng đầu năm 2008, đã xuất hiện xu hướng giảm tốc độ xuất khẩu sang Mỹ, thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Do cầu tiêu dùng tại Mỹ đang trên đà suy giảm mạnh bởi tác động của khủng hoảng tài chính, trong 9 tháng đầu năm, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ chỉ đạt 16,7%, thấp hơn khá nhiều so với mức 26,7% của năm 2007. Tỷ trọng của thị trường Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã giảm, từ 20,7% của năm 2007 xuống còn 17,7% trong 9 tháng đầu năm nay. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng nhất là may mặc, giày da, gạo, cá basa, cà phê...
Cuộc khủng hoảng cũng tác động đến tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang Erope Union (Liên hiệp Châu Aâu) và Nhật Bản - hai thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Phân tích của các chuyên gia kinh tế cho thấy, do bị tác động mạnh từ cuộc khủng hoảng, người tiêu dùng của các thị trường này cũng phải cắt giảm chi tiêu, nên nhu cầu nhập khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng sẽ có xu hướng giảm. Tỷ trọng của thị trường EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng đã giảm, chỉ còn 16,5%, trong khi năm 2007 là 18%.”
Theo ước tính của Phúc: “Xuất khẩu cả năm 2008 dự kiến chỉ đạt khoảng 64 tỉ USD, tăng 31,8% so với thực hiện năm 2007, thấp hơn so với dự báo của Chính phủ vào đầu tháng 10-2008 cả về kim ngạch và tốc độ tăng (tương ứng là 65 tỉ USD và 33,9%) do xuất khẩu giảm không chỉ về số lượng các đơn hàng, mà cả về giá bán của hàng hóa xuất khẩu. Năm 2009, dự kiến kim ngạch xuất khẩu là 64 tỉ USD, giảm cả về kim ngạch và tốc độ tăng kim ngạch so với con số đã được trình Quốc hội đầu tháng 10-2008 (số trình Quốc hội tháng 10-2008 tương ứng là 67,7 tỉ USD và 18%).”
Về khả năng đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam trước bối cảnh kinh tế xuống dốc leo thang từ nước này qua nước khác, Phúc bi quan : “  Tác động lớn nhất của cuộc khủng hoảng này là làm thay đổi hoàn toàn và sâu sắc ngành công nghiệp tài chính Mỹ và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong những năm tới, dòng vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam sẽ suy giảm, vì do bất ổn kinh tế và sự suy thoái kinh tế toàn cầu.”
Về ngắn hạn, khủng hoảng ở Mỹ chưa có tác động lớn đến Việt Nam do dòng vốn đầu tư vào Việt Nam hầu hết bắt nguồn từ các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực như Xin-ga-po, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan,... Mỹ chỉ đứng thứ 11 trong hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam với 419 dự án còn hiệu lực, tổng số vốn đăng ký 4,1 tỉ USD.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính đã không chỉ dừng lại ở Mỹ mà đã lan sang các nước phát triển khác, trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia có đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Các nước châu Á, nơi chiếm tới 80% dòng vốn đầu tư vào Việt Nam, cũng đang chịu tác động lớn của cuộc khủng hoảng. Việc huy động vốn trên thế giới sẽ gặp nhiều khó khăn do chi phí vốn trở nên đắt đỏ hơn. Hậu quả là các nhà đầu tư sẽ hạn chế tăng thêm đầu tư mới và thực hiện các dự án đã cam kết. Đã có xu hướng một số công ty mẹ ở chính quốc yêu cầu các chi nhánh tại Việt Nam phải giảm đầu tư để rút vốn về để tháo gỡ khó khăn cho các công ty mẹ. Do vậy, trong dài hạn, nếu khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới không bị chặn lại thì chắc chắn nó sẽ tác động tới đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.”
Lời báo động  này sẽ có tác động rất lớn đối với nền kinh tế đang trên đà suy thoái  của CSVN.   Việt Nam  cũng sẽ  bị  mất  thêm một phần lớn trong mối lợi  kiều hối từ 3.5 đến 4.5 tỷ dollars vẫn thu về hàng năm  mà không phải bỏ ra đồng vốn nào.  Khỏan tiền này do  người Việt tị nạn gửi về cho thân nhân và  bạn bè trong nước vào dịp Tết Nguyên Đán, nhưng nền kinh tế tại các nước có đông người Việt định cư như Mỹ, Âu Châu, Gia Nã Đại, Úc  đang lâm nguy đã ảnh hưởng đến  mức thu nhập của họ.
Ngòai ra theo thống kê của nhà nước Việt Nam, hàng năm tổng số tiền lao động ở nước ngoài gửi về nước  khoảng từ 1,6 đến 2 tỉ USD.
Như vậy xem ra tình hình kinh tế  của Việt Nam vào dịp cuối năm không mấy sáng sủa, nhưng  Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng chính phủ lại vừa tính tung ra món hàng “kích cầu” 6 tỷ Mỹ kim để cứu  nguy.
Báo Điện tử Trung ương đảng viết ngày 20-12 (2008) : “ Vấn đề kích cầu, cụ thể hơn nữa, việc Chính phủ đổ thêm 100.000 tỷ đồng (tương đương 6 tỷ USD) vào cho các mục tiêu kích cầu đang là vấn đề thời sự nóng bỏng từ các cơ quan điều hành kinh tế vĩ mô tới các doanh nghiệp, từng người dân.
6 tỷ USD so với hàng trăm tỷ USD các nước công nghiệp phát triển đổ vào để cứu vãn nền kinh tế khỏi khủng hoảng quả là rất nhỏ, ngay với trong nước, nó cũng chỉ bằng 1/7 tổng vốn đầu tư cả năm nay nhưng nếu giải ngân nhanh, giải ngân đúng chỗ thì chỉ với 6 tỷ USD có thể cứu vãn được nền kinh tế đang trong cơn oi bức trước dông bão.
 Đến bây giờ, khó có ai còn nghi ngờ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang ngày càng ảnh hưởng đến nước ta. Xuất khẩu chậm lại, du lịch vắng khách, gíá dầu thô giảm nhanh chóng, các nguồn vốn đầu từ trực tiếp và gián tiếp ngày càng thắt chặt hơn là những dấu hiệu rấ đáng quan tâm. Không chỉ kinh tế đối ngoại, kinh tế trong nước cũng đang đứng trước nhiều bất ổn. Giá tiêu dùng 2 tháng qua giảm mạnh nhưng lượng người mua không tăng. Nhiều doanh nghiệp thiếu vốn, thiếu đầu ra trong khi sức ép giá lao động, sức ép giá đầu vào nặng nề nhưng vẫn phải sản xuất cầm chừng mặc dù đình đốn thậm chí đứng trước bờ vực phá sản. Đồng thời với nguy cơ lạm phát, nguy cơ trì trệ, đình đốn cũng đang rõ dần. Trước tình hình đó, hạn chế lạm phát đồng thời với kích cầu, vượt ra khỏi nguy cơ trì trệ là một giải pháp đúng.”
Đó là quan điểm “mèo khen mèo dài đuôi” của đám gà nhà đang  đua nhau công kênh  chiếc đũa thần vạn năng này.  Nhưng nhiều chuyên gia kinh tế trong nước cảnh báo rằng : Nếu không biết làm hay không minh bạch thì không chừng tiền nhà nước in ra lại đổ vào các doanh nghiệp nhà nước để nuôi bọn tham nhũng.
Một trong những người này là  Tiến sỹ  kinh tế Lê Đăng Doanh đã cảnh giác đảng phải tránh “đừng đổ nước vào chỗ trũng”. -/-
Phạm Trần
(12/08)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký 14 Văn kiện hợp tác an ninh Chính trị, Kinh tế-Thương mại và Văn hóa-Báo chí trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Tổng Bí thư Tô Lâm từ ngày 18 đến 20/08/2024. Trong số này, Văn kiện kết nối và thiết lập 3 Tuyến đường sắt giữa hai nước được gọi là “anh em” đã giúp Trung Quốc liên thông ra Biển Đông và bành trướng thế lực kinh tế...
Tại Campuchia, kênh đào Phù Nam Techo, trị giá 1,7 tỷ USD sẽ kết nối Phnom Penh và Vịnh Thái Lan, tượng trưng cho niềm tự hào dân tộc, an ninh và kết nối thương mại quốc tế. Người ta có thể cảm thấy như thế qua lời tuyên bố của Thủ tướng Campuchia Hun Manet và của ông Hun Sen, trong cương vị cố vấn, người đã chuyển giao quyền lực từ cha sang con vào năm ngoái...
Danh từ được tác giả dùng trong bài này không phải là danh từ theo tự loại mà là một thuật ngữ của Việt Cộng. Thuật ngữ Việt Công hay là danh từ Việt Cộng là những thuật ngữ, những từ được dùng trong nước dưới chính quyền Cộng sản Việt Nam. Ở trong nước người ta không dùng từ “Việt Cộng” mặc dầu Việt Cộng chỉ có ý nghĩa là Cộng Sản Việt Nam chớ không có nghĩa gì khác. Phải nói rõ ràng và dài dòng như vậy để tránh hiểu lầm và hiểu sai. Những danh từ đề cập trong bài viết này đa số là những danh từ kinh tế, vì chủ đề của bài viết là kinh tế, phân tích những ván đề kinh tế, nhận định về kinh tế chớ không phải chính trị, mặc dầu kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị, xuất phát từ chính trị và tác động trở lại đời sống của mỗi con người chúng ta.
“Tôi hơi chậm hiểu lại rất chóng quên nên dù đã lê lết qua hơi nhiều trường ốc (trong cũng như ngoài nước) nhưng trình độ học vấn và kiến thức cũng chả̉ tới đâu, vẫn chỉ ở mức làng nhàng. Nói tóm lại là thuộc loại “xoàng”! Ơ! “Xoàng” thì đã sao nhỉ? Cũng không đến nỗi trăng/sao gì đâu, nếu tôi biết điều (biết chuyện – biết thân – biết phận) hơn chút xíu. Khổ nỗi, tôi lại cứ tưởng là mình cũng thuộc loại đầu óc trung bình (hoặc chỉ dưới mức đó không xa lắm) nên ghi danh học – tùm lum/tùm la – đủ thứ phân khoa: Triết Lý, Tâm Lý, Xã Hội, Nhân Chủng …
Một bài viết ngay sau khi được bầu vào chức Tổng Bí thư đảng CSVN cho thấy ông Tô Lâm đã hiện nguyên hình một người giáo điều, bảo thủ và hoài nghi trong “hợp tác quốc tế” với các nước. Trước hết ông cáo giác: “Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” Lời tố cáo này không mới vì chỉ “nói cho có” và “không trưng ra được bằng chứng cụ thể nào”, giống hệt như những người tiền nhiệm...
- Mình lúc này không muốn theo dõi tin tức nữa. Mệt lắm. - Mình cũng vậy, không đọc báo, chỉ xem phim hoặc nghe thuyết pháp, tránh nhức đầu. - Đời người ngắn ngủi, sao phải tốn thì giờ… - Ở tuổi này, chuyện gì không vui xin miễn, tội gì phải đọc tin tức rồi tự mình làm khổ mình. Trong những năm gần đây, những phát biểu đại loại như trên từ bạn bè khiến những người trong ngành chúng tôi đôi lúc không khỏi ngán ngẫm về công việc báo chí của mình, một việc làm nếu đã không được tưởng thưởng tài chánh tương xứng, thì phần thưởng tinh thần từ ý nghĩa tự nó cũng không đủ bù đắp. Đọc báo hay không đọc báo?
Hồi đầu thế kỷ, có bữa, tôi nhận được thư của Vũ Thư Hiên. Ông hớn hở cho hay “Anh Tấn sắp sang Pháp chơi với anh vài tuần”. Thuở ấy, hai ông còn khá trẻ trung (và còn sung lắm) nên chắc chắn là đôi bạn già sẽ đi lung tung khắp Âu Châu, chứ dễ gì mà chịu quanh quẩn ở Paris. Mãi cả chục năm sau, sau khi nhà văn Bùi Ngọc Tấn lâm trọng bệnh, tôi mới nghe ông nhắc đến chuyến du hành thú vị này (với ít nhiều tiếc nuối) trong một cuộc phỏng vấn dành cho BBC – vào hôm 14 tháng 11 năm 2014: “Sang châu Âu, tôi quan sát dáng người đi, nét mặt của họ khác dân mình lắm… Đi thì mới biết mình bị mất những gì.”
Chủ tịch nước Tô Lâm được bầu làm Tổng Bí thư đảng CSVN, thay ông Nguyễn Phú Trọng từ trần ngày 19/07/2024, nhưng ông Tô Lâm chỉ dám hứa sẽ tiếp tục đi theo con đường ông Trọng đã đề ra...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.