Hôm nay,  

Biden Và Đồng Minh

10/20/200800:00:00(View: 16790)

...‘Phó Tổng Thống’ Biden và Khi Đồng Minh Tháo Chạy Khỏi Iraq...

(Gần đây trên mạng có nhiều bàn luận về lập trường chống đối của Nghị sĩ Joe Biden đối với người Việt tỵ nạn. Một số đã đặt vấn đề là phải có bằng chứng! Chúng tôi xin ghi lại vài sự kiện trong cuốn ‘Khi Đồng Minh Tháo Chạy’ để mở rộng việc tham khảo.)

Lúc ấy chưa có CNN, nên tin tức chỉ do ba kênh ABC, NBC, CBS phát sóng  mỗi buổi chiều. Vào cuối tháng Ba đầu tháng Tư năm 1975, hình ảnh gây xúc động nhiều nhất là về hai tình huống đối nghịch: một là về chiến trường Miền Nam, và hai là cảnh Tổng thống Ford chơi gôn ở Palm Spring. Đà Nẵng thất thủ rồi mà ông và Ngoại trưởng Kissinger cứ tỉnh bơ. Cuối tuần, ông còn định cùng với phu nhân tới dự tiệc với ca sĩ nổi danh Frank Sinatra do Kissinger mời. Nhân viên trong đoàn tùy tùng phải cản lại vì ông đang bị báo chí chỉ trích là chỉ vui chơi trong khuôn viên các nhà triệu phú đang khi Việt Nam bốc cháy.

Thế nhưng chỉ mấy ngày sau, đã có sự thay đổi rõ rệt về thái độ của ông Tổng Thống: ông ra phi trường San Francisco đón tiếp đám trẻ em mồ côi vừa được chở tới từ Tân Sơn Nhất. Và từ lúc đó, ông quyết định cứu một số người Việt tỵ nạn và xin thêm quân viện cho Miền Nam. Ông làm như vậy dù các cố vấn đã khuyên ông là cứ lờ đi cho xong. Chính ông viết lại rằng Kissinger cũng đã soạn sẵn cho ông một bài diễn văn vào loại ‘cháy nhà bình chân như vại’ (go down with the flag flying) để đọc tại Quốc Hội, nhưng ông đã không chấp nhận.

Yếu tố nào đã đưa tới sự thay đổi quan trọng ấy"

Không còn nghi ngờ gì nữa về lý do chính là vì ông đã được đọc vài lá thư mật của Tổng thống Nixon gửi Tổng thống Thiệu do Tướng Weyand chuyển đạt. Weyand đã dùng mưu lược: ông đến gặp Tổng thống năm phút trước khi Kissinger tới họp vào sáng ngày năm Tháng Tư. Ông Von Marbod kể lại cho chúng tôi là đọc xong thư, Tổng thống Ford đã hết sức xúc động vì thấy sự bất công quá rõ ràng của Hoa kỳ đối với VNCH.

Von Marbod là Đệ nhất Phó Phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng, cùng đi với Tướng Weyand sang Việt Nam. Ông cũng là người đã giúp chúng tôi trong việc bí mật chuyển đạt hai lá thư cho Tổng thống Ford sau khi thuyết phục được sự đồng ý của Tổng thống Thiệu. Marbod đã có mặt khi Weyand đưa thư. Sau này khi phỏng vấn chính Tổng thống Ford thì chúng tôi lại càng thấy rõ hơn về việc này. Khi đưa cho ông xem lại tài liệu, ông vẫn còn bùi ngùi. Ông ký tặng chúng tôi cuốn Hồi ký ‘A Time to Heal’ (Thời gian để hàn gắn) với mấy chữ: To Greg Hung, with warmest best wishes - Gerald R. Ford (Gregory là tên Thánh của chúng tôi).

Về nhà mở ra đọc, chúng tôi mới biết rằng đúng ngày Tổng thống Thiệu chỉ thị cho chúng tôi đi Washington để sắp xếp thì Ủy Ban Ngoại Giao Thượng Viện đã tự động yêu cầu và đến Tòa Bạch Cung gặp Tổng thống để bầy tỏ về lập trường dứt khoát chấm dứt viện trợ. Họ còn tiến xa hơn nữa là đã bác bỏ cả vấn đề di tản một số người Việt. Một điều hơi lạ với chúng tôi khi đọc cuốn sách  là thấy trong Ủy Ban này, có một nghị sĩ chưa bao giờ chúng tôi nghe đến tên. Các vị khác như Frank Church, Jacob Javits, Clifford Case thì đã quá quen thuộc. Trong buổi họp với Tổng thống, nghị sĩ này đã mạnh mẽ chống đối việc di tản người Việt Nam. Nghiên cứu thêm chúng tôi mới biết là ông này rất trẻ, vừa mới 30 tuổi đã được bầu vào Thượng Viện (tháng  Giêng, 1973 - cũng là thời điểm ký kết Hiệp định Paris).

Đó là Nghị sĩ Joseph Biden thuộc tiểu bang Delaware. Ngôn từ của ông trong buổi họp thật là thiếu nhân hậu, nếu không phải là tàn nhẫn.

Trong cuốn hồi ký, Tổng thống Ford đã kể lại việc này. Sau đây là vài đoạn trích dịch (trang 253-256): “Chúng tôi cảm thấy rằng một cuộc di tản vội vã sẽ có những hậu quả trầm trọng. Một tình trạng hoảng hốt lớn tại thủ đô Miền Nam sẽ có thể phát sinh, và trong sự chua cay là đã bị ‘phản bội,’ quân đội miền Nam có thể quay súng vào người Mỹ” ...

“Ngày 14 tháng 4, Ủy Ban Ngoại Giao Thượng Viện yêu cầu gặp tôi để thảo luận về tình hình Đông Nam Á. Đây là sự việc hãn hữu ít khi xẩy ra - lần cuối cùng Ủy Ban này họp với Tổng Thống là thời Wilson (Woodrow Wilson, 1913 - 1921, lời tác giả) - vậy nên tôi gọi cả Kissinger (Ngoại Trưởng), Schlesinger (Bộ Trưởng Quốc Phòng) và Scowcroft (Cố Vấn An Ninh) cùng tới dự.

“Buổi họp diễn ra trong bầu không khí hết sức căng thẳng. Tôi yêu cầu Kissinger và Schlesinger trình bày về tình hình chính trị và quân sự tại Miền Nam, rồi tôi tham khảo ý kiến của quý vị Nghị sĩ. Thông điệp của họ đã thật rõ ràng: hãy ra đi ngay, và đi cho nhanh (The message was clear: get out, fast)… “Chúng tôi bằng lòng chấp thuận một ngân khoản lớn để di tản,” Nghị sĩ New York là Jacob Javits nói, “nhưng viện trợ quân sự thì một cắc cũng không” … Nghị sĩ tiểu bang Idaho là Frank Church thì cho rằng sẽ có vấn đề lớn ‘có thể lôi cuốn chúng tà vào một cuộc chiến lâu dài’ nếu chúng ta di tản tất cả những người Việt Nam đã trung thành với chúng ta.

“Nghị sĩ tiểu bang Delaware là Joseph Biden dội lại điệp khúc: “Tôi sẽ bỏ phiếu thuận để cấp bất cứ ngân khoản nào cho việc di tản người Mỹ ra khỏi Việt Nam, nhưng tôi không muốn số tiền đó dính líu gì tới việc di tản người Việt.”

Trong cương vị là Tổng thống viết hồi ký, có lẽ ông Ford đã viết nhẹ nhàng hơn là những gì thực sự đã xảy ra tại cuộc họp. Sau này khi đọc được cuốn hồi ký của Ron Nessen, Phụ tá Báo chí và là người rất thân cận với Tổng thống Ford, chúng tôi thấy lời lẽ của Nghị sĩ Biden về người Việt tỵ nạn đã nặng nề hơn nhiều chứ không phải chỉ là vấn đề ‘dính líu.’ Trong cuốn It Sure Looks Different From the Inside (Những gì ở hậu trường thì thực là khác), Nessen thuật lại rõ ràng hơn, tóm tắt như sau (trang 104-106): “Kissinger bắt đầu cuộc họp qua việc tiết lộ là trên một triệu người có liên hệ với Mỹ sẽ bị nguy hiểm với Cộng Sản sau cuộc chiến. Trong số này, có 174.000 người là bị nguy cơ đặc biệt nên Mỹ phải cho di tản nếu có thể được... "

“Tổng Thống Ford cảnh cáo: “Nếu quý vị tuyên bố ‘không di tản người Việt Nam,’ quý vị sẽ có khó khăn lớn trong việc di tản 6,000 người Mỹ ra khỏi Việt Nam.”

 “Kissinger, với vẻ mặt mệt mỏi và phiền muộn, nói thêm rằng một quan chức Sàigòn (có thể là Đại sứ Trần Kim Phượng - lời tác giả) đã nói với ông: “Nếu các Ngài rút người Mỹ ra và bỏ rơi chúng tôi trong hoạn nạn, các Ngài có thể sẽ phải đánh nhau với một sư đoàn quân đội Miền Nam để có lối ra”…

“Tới đây, vấn đề an toàn của số người Mỹ còn lại ở Việt Nam trở nên mối lo ngại lớn cho Ủy Ban... “Chúng tôi không muốn người Mỹ bị bắt làm con tin,” (để phải di tản người Việt), Nghị sĩ Charles Percy bình luận.

“Tổng thống Ford cảnh cáo thêm... “Nếu ta rút hầu hết người Mỹ ra cùng một lúc thì sẽ làm cho người Việt Nam nghĩ rằng Mỹ đang tháo chạy nên có thể gây hoảng hốt, dẫn tới những cuộc tấn công vào số người Mỹ còn lại”...

“Nghị sĩ Joseph Biden nói toạc móng heo: “Tôi không muốn trả bất cứ món nào để đưa người Việt Nam đi, chỉ trừ khi ta không thể mang được người Mỹ nào ra mà không phải mua 174.000 người Việt Nam. Trong trường hợp đó, tôi sẵn sàng mua 174.000 người Việt Nam” (dùng chữ nghiêng là do tác giả): “I am not willing to pay any money to get the Vietnamese out unless we can’t get any Americans without buying 174.000 Vietnamese. In that case, I’m willing to buy the 174.000 Vietnamese” (độc giả lưu ý là ông dùng chữ ‘buy’ hai lần).

Bên ngoài Tòa Bạch Ốc, Nghị sĩ McGovern, người ra tranh cử với TT Nixon năm 1972 lại đổ thêm dầu vào lửa: “Tôi cho rằng người Việt Nam sẽ được sung sướng hơn nếu họ ở lại Việt Nam, kể cả lũ trẻ con mồ côi kia nữa,” tuần báo Time đã ghi lại (trong số ngày 12 tháng Năm, 1975, trang 26).

Nessen viết thêm: “Sau cuộc họp, Tổng thống Ford còn dặn các nghị sĩ chớ để cho báo chí biết là tất cả phiên họp chỉ để bàn bạc về chuyện di tản. Quý vị hãy nói: “Chúng tôi chỉ bàn chuyện làm thế nào để ổn định tình hình.”

*** 

Dù sao, chúng tôi cũng hy vọng rằng nếu thắng cử, Phó Tổng thống Joseph Biden sẽ thay đổi thái độ và lập trường đối với đoàn người tỵ nạn chắc chắn sẽ từ Iraq chạy đến với Nữ thần Tự do. Nếu không thắng cử, ông cũng vẫn còn ngồi lại chức Chủ tịch Ủy Ban Ngoại Giao Thượng Viện trong một vài năm tới.

Sở dĩ  hy vọng ông sẽ thay đổi lập trường là vì ba lý do: thứ nhất, trong cương vị Chủ tịch của Ủy Ban này, ông Biden đã học hỏi được thêm kiến thức và kinh nghiệm về ngoại giao; thứ hai,  ở tuổi 66 thì chắc là tư duy của ông cũng phải khác lúc mới 33 tuổi (khi họp với Tổng thống Ford); thứ ba, và quan trọng hơn hết là trong 33 năm qua ông đã chứng kiến sự thành công về mọi mặt cũng như sự đóng góp đáng kể cho quốc gia Hoa Kỳ do cộng đồng người Việt tỵ nạn. Như vậy chắc ông đã phải nhận thức được sự sai lầm lớn lao của mình hồi 1975.

Ta hãy chờ đợi xem sao.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Chiều thứ Sáu, chúng tôi ăn trưa với một người bạn mới ở Huntington Beach. Không biết vì men bia hay vì chọn quán giữa một thành phố “đỏ”, câu chuyện đang nhẹ nhàng bỗng rẽ thẳng vào chính trường. Nhắc đến những gì xảy ra kể từ ngày tổng thống Trump nắm quyền sinh sát, cô bạn tôi đề cập đến vật giá leo thang, vừa lạm phát vừa thuế quan, kinh tế bất ổn, đời sống bất an… Anh bạn mới của chúng tôi nghe đến đây lên tiếng cắt lời: “Dẫu có thế, so với nhiều người, nhiều xứ khác, người Mỹ vẫn còn đang sống trong may mắn. Và chúng ta nên biết ơn điều đó.” Anh khiến tôi liên tưởng đến thuyết “dân túy tàn bạo”, được Jay Kuo nhắc đến trong bài báo mới đăng của Ông trên Substack tuần qua.
Tuần trước, tình cờ tôi đọc được một bài viết của tác giả Vũ Kim Hạnh được chia sẻ lại qua Facebook. Bài viết có tựa đề là "Cơ hội vàng ở Mỹ sau mức thuế đối ứng 20%", trong đó bà nhắc riêng về kỹ nghệ xuất cảng gỗ của Việt Nam sang Hoa Kỳ và thế giới. Trước khi đi vào chi tiết của bài viết, có thể nhắc sơ về bà Vũ Kim Hạnh ắt đã quen thuộc với nhiều người trong nước. Bà từng là Tổng Biên Tập báo Tuổi Trẻ, cũng như nằm trong nhóm sáng lập tờ tuần báo Sài Gòn Tiếp Thị, từng là những tờ báo khá thành công tại Việt Nam.
Franklin D. Roosevelt (1882-1945), Tổng Thống Hoa Kỳ thứ 32 và là vị tổng thống Mỹ duy nhất phục vụ hơn 2 nhiệm kỳ, đã từng nói rằng, “Tự do của nền dân chủ không an toàn nếu người dân dung túng sự gia tăng của quyền lực cá nhân tới mức trở thành mạnh hơn chính nhà nước dân chủ đó. Điều đó trong bản chất là chủ nghĩa phát xít: quyền sở hữu của chính phủ thuộc về một cá nhân, một nhóm người, hay bất cứ thế lực cá nhân nào đang kiểm soát.” Lời cảnh giác đó của TT Roosevelt quả thật đã trở thành lời tiên tri đang ứng nghiệm trong thời đại hiện nay của nước Mỹ. Tổng Thống Donald Trump trong nhiệm kỳ đầu và gần 8 tháng của nhiệm kỳ hai đã thể hiện rõ ý chí và hành động của một nhà lãnh đạo muốn thâu tóm mọi quyền lực trong tay mình bất chấp những việc làm này có phá vỡ nền tảng tự do và dân chủ mà nước Mỹ đã nỗ lực không ngừng để tạo dựng và giữ gìn trong suốt hai trăm năm mươi năm qua hay không!
Từ lâu trong chính trị Mỹ vẫn tồn tại một quy tắc bất thành văn, khi thì nói lên to rõ “chúng ta tốt đẹp hơn như thế này,” hoặc có khi chỉ thì thầm, nhẹ nhàng, rằng đảng Dân Chủ không nên sa vào bùn lầy. Nhiều thập niên qua, “quy tắc” này đã định hình cả vận động tranh cử lẫn cách cầm quyền lãnh đạo. Tổng thống Barack Obama, bằng sự điềm tĩnh, được xem là bậc thầy về nghệ thuật này, ngay cả khi Donald Trump mở màn thuyết âm mưu “giấy khai sinh giả.” Tổng thống Joe Biden cũng vậy. Ông lèo lái đất nước sau đại dịch bằng chiến lược đặt niềm tin vào sự văn minh, đoàn kết, tin rằng lời kêu gọi phẩm giá có thể giữ thăng bằng cho con thuyền trong cơn chao đảo vì sóng dữ.
Trong nhiều tháng qua, các tài khoản chính thức của Bạch Ốc và Bộ Nội An trên mạng X liên tục tung ra hình ảnh và video (meme) dị hợm: từ ảnh ghép kèm âm thanh chế giễu, những đoạn đăng kiểu TikTok, cho đến tranh vẽ bằng trí tuệ nhân tạo. Đây không phải trò vui của vài nhân viên rảnh rỗi, mà là một chiến dịch có chủ ý, lặp đi lặp lại, như muốn răn: ai mới thực sự được coi là người Mỹ. Trang NPR ngày 18 tháng 8 nhận định: “Các tài khoản chính thức của chính quyền Trump đang khai thác đủ kiểu meme, hình ảnh AI với giọng điệu đầy thách thức trong các bài đăng trên mạng xã hội.”
Trước khi quay lại cùng cuộc họp song phương giữa Trump và Putin tại Alaska, hãy quay lại những cuộc họp giữa Donald Trump và lãnh tụ Bắc Hàn Kim Jong Un trong nhiệm kỳ đầu của Donald Trump. Lần đầu tiên, một đương kim tổng thống Hoa Kỳ đã hạ mình sang Châu Á đến ba lần, lần đầu tại Singapore, rồi Việt Nam và cuối cùng ngay tại khu phi quân sự giữa Nam-Bắc Hàn, để gặp và nâng cao vị thế một tay "Chí Phèo" cộng sản mặt sữa nhưng khét tiếng độc ác lên vị thế chính thức ngang hàng với Hoa Kỳ trên chính trường quốc tế.
Trong căn phòng trắng, lổm chổm những mảng phù điêu mạ vàng trên trần nhà và tường, một người đàn ông mảnh khảnh, nhanh nhẹn bước ra giới thiệu trước ống kính báo chí món quà đặc biệt ông cố ý mang theo tặng Tổng thống Donald Trump. Đó là lần hiếm hoi CEO của hãng Apple, Tim Cook, xuất hiện trong trang phục sơ mi cà vạt vest đen. Ngay cả trong những lần ra mắt sản phẩm iPhone mới hàng năm, vốn được xem là sự kiện quan trọng bật nhất của Apple, người ta cũng không thấy Cook phải bó mình trong bộ lễ phục trịnh trọng như vậy. Tim Cook đã mang đến cho các tín đồ của trái táo một sự bất ngờ, giống như 15 năm trước, ông xuất hiện trên tạp chí Out ở vị trí đầu bảng xếp hạng Power 50, một danh sách xếp hạng những cá nhân đồng tính nam và đồng tính nữ có ảnh hưởng nhất vào thời điểm đó.
Trong những tháng qua, thảm họa đói của người Palestine ở dải Gaza đã làm thế giới rúng động. Tin tức về trẻ em Palestine bị bắn chết trong khi cố len lỏi tới rào sắt để nhận thức ăn viện trợ được truyền đi; nhiều người đặt câu hỏi về lương tri của những kẻ tổ chức “công tác nhân đạo” này (công ty Gaza Humanitarian Foundation do chính phủ Trump hậu thuẫn). UN ước tính có khoảng 1,400 người Palestine đã chết khi tìm cách nhận thực phẩm cứu trợ. Vào tháng 12 năm 2023, Nam Phi đã đệ đơn kiện Israel lên Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) cáo buộc quốc gia này phạm tội diệt chủng ở Gaza. Một số quốc gia khác tham gia hoặc bày tỏ sự ủng hộ đối với vụ kiện, bao gồm: Nicaragua, Bỉ, Colombia, Thổ Nhĩ Kỳ, Libya, Ai Cập, Maldives, Mexico, Ireland, Chile Palestine…
Trí nhớ của một cộng đồng không chỉ mất đi khi thời gian làm phai mờ, mà có khi có bàn tay cố tình tháo gỡ. Không cần nhiều bút mực, chỉ cần bỏ vài dòng, thay một chữ, hoặc xóa một đoạn – câu chuyện lập tức đổi nghĩa. Lịch sử hiện đại đã nhiều lần chứng kiến điều đó. Năm 1933, chính quyền Quốc xã Đức đốt sách giữa quảng trường, thay lại giáo trình, đặt viện bảo tàng và văn khố dưới quyền Bộ Tuyên Giám. Joseph Goebbels nói: “Chúng ta không muốn người dân sử dụng cái đầu. Chúng ta muốn họ hành xử theo cảm tính.” Tám thập niên sau, ở một góc khác của địa cầu, những bản thảo của Trương Vĩnh Ký – người khai sáng nền quốc ngữ Việt – bị loại khỏi thư viện vì bị gán là “tay sai thực dân”. Sau 1975, chính quyền cộng sản xét duyệt văn hóa trên toàn quốc: các tác phẩm học thuật bị cấm; bị đốt, tên tuổi các học giả và nhà văn miền Nam biến mất khỏi mọi tiến trình văn hóa. Tại Hoa Kỳ ngày nay, sự thật không bị đấu tố – nhưng bị biên tập lại.
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.