Hôm nay,  

Vấn Đề Người Chăm Đòi Đất Đai

13/04/200900:00:00(Xem: 10123)

Vấn đề người Chăm đòi đất đai

Từ công Nhượng
(LTS: Bài viết sau của nhà văn Từ Công Nhượng, TTK/Hội IOC-Champa, nhằm trả lời một điểm thắc mắc của Tiến Sĩ Mai Thanh Truyết, sẽ làm sáng tỏ thêm một vấn đề nóng bỏng và để rộng đường dư luận.)
Gần đây có những bài viết đăng trên mạng đưa ra vấn đề người Chăm đòi lại đất đai, điển hình như bài của ông Phan Cao Sơn mang tựa đề “Người Chàm đòi đất đai” được đăng trên “tinparis.net” vào ngày 9 tháng 2 năm 2009 và một bài nữa của ông Tiến sĩ Mai Thanh Truyết báo động về nguy cơ Trung Cộng đang tiến hành chiến lược xâm lăng lãnh thổ Việt Nam trong “Chiến Lược TQ Nhằm Biến Tây Nguyên Việt Nam Thành Tây Tạng 2 – tình hình thập phần nguy hiểm”, đăng trên mạng Việt Báo, Thứ Ba ngày 24 tháng 3 năm 2009 vừa qua.
Để trả lời cho bài viết của ông Phan Cao Sơn, ông Musa Porome, chủ tịch của Hội IOC-Champa viết một kháng nghị thư đăng trên mạng “champaka.org” vào ngày 17 tháng 2 năm 2009 nhằm giải tỏa cho những nghi vấn liên quan đến vấn đề người Chăm đòi đất đai hay đòi quyền tự trị.
Riêng về bài của Ts Mai Thanh Truyết phân tích và báo động về lộ trình thôn tính Việt Nam của TQ, trong đó nói về vấn đề khai thác quặng Bauxite tại Đak Nông vùng Cao Nguyên Việt Nam, và đặt vấn đề với người Chăm phối hợp với TQ để dành lại chủ quyền của vương quốc Champa.  Đó là vấn đề mà chúng tôi muốn trình bày ở đây.
Xin mạn phép trích đoạn văn của Ts Mai Thanh Truyết:
“… Hiện tại, TQ đã phối hợp một cách gián tiếp với người Chăm ở cao nguyên Bolloven bên Lào, bên Cambodia, và “nhập nhằng” tóm gọn hai dân tộc Chăm và  Thượng làm một, dưới danh nghĩa Fulro/Chăm để khích động nhu cầu dành lại chủ quyền của vương quốc Champa do một nhóm người Chăm bên Pháp dưới quyền lãnh đạo của một tiến sĩ người Chăm cổ suý.  Nhóm nầy cũng được sự hỗ trợ của thực dân Pháp vốn đã có quyền lợi tại vùng cao nguyên nầy hồi thời thuộc địa. Cũng cần nên biết thêm, người Thượng ở vùng Cao nguyên hiện tại đã được các hội thiện nguyện Hoa Kỳ yểm trợ dưới danh nghĩa DEGA.  Theo tin tức được loan tải trên mạng, họ đã hình thành tổ chức The Cham National Federation of Cambodia (CNFC) và đã được Liên hiệp Quốc công nhận qua Department Of Economic and Social Affairs (DESA) dưới quy chế Tham Mưu (consultative status) kể từ năm 2009 nầy.  Một tổ chức thứ hai là The Overseas Cham Unity Organization (OCUO) cũng đang xúc tiến hồ sơ lên Liên Hiệp Quốc và Thuỵ Điển để ghi danh xin thành lập Chính phủ Lưu vong Chăm (Cham’s Government In Exile).  Chính phủ nầy sẽ ở ngoài lãnh thổ truyền thống của Champa là miền Trung Việt Nam, mục đích nhằm duy trì sự hiện hữu của chính phủ hoàng gia Champa trước đây.  Theo như dự định, chính phủ nầy sẽ phác thảo bản hiến pháp và triệu tập Đại hội để bầu ra Thủ tướng và các Bộ trưởng vào nội các chính phủ.  Qua các tin tức trên, chúng ta thấy rõ ràng là phải có bàn tay “lông lá” của TC mới có thể thực hiện được những dự tính thành lập chính phủ lưu vong của người Chăm.  Theo một nguồn tin đáng tin cậy, chính phủ lưu vong ban đầu dự định đặt trụ sở tại đảo Hải Nam (TQ), nơi có một cộng đồng thiểu số Chăm nay gọi là Utsat cư ngụ. Cộng đồng người Chăm nầy theo sử liệu đã sang định cư tị nạn tại đây để chạy loạn vào thời Lưu Kỳ Tông, một ông vua tiếm ngôi không phải gốc Chăm đã có một thời áp dụng chính sách cai trị hà khắc với dân chúng Chăm năm 988 (theo Georges Maspero trong quyển sách Le Royaume de Champa). Nhưng sau đó, để tránh sự phản kháng của các thành viên LHQ khác, trụ sở dự định mới sẽ là Thuỵ Điển, nơi có một tiến sĩ người Chăm định cư để tạo danh nghĩa nhằm gây áp lực với Việt Nam cộng sản khi cần thiết.  Câu hỏi được đặt ra là TQ giúp người Chăm hải ngoại nhằm mục đích gì"”
Tác giả kết luận rằng vấn đề Việt Nam cho phép TQ hợp tác khai thác quặng Bauxite tại Đak Nông ở Cao Nguyên và người Chăm đòi lại đất đai đều nằm trong “những mắc xích tiến chiếm Việt Nam của TQ”.
Người Chăm đòi lại đất đai – chuyện thật hay ảo"
Bài “Chiến Lược TQ Nhằm Biến Tây Nguyên Việt Nam Thành Tây Tạng 2 – tình hình thập phần nguy hiểm” của Ts Mai Thanh Truyết làm gợi lại cuộc sống tại Mỹ vào năm 2003 trong lúc tổng thống Bush đệ nhị (ông Bush con) và nội các của ông đang tìm cách tấn công nước Iraq. Tôi còn nhớ lúc ấy hầu như ngày nào báo chí Mỹ cũng đăng các nguồn tin tức theo dư luận, bới lông tìm vết để tìm vũ khí giết người hàng loạt (Weapon of Mass Destruction) của ông Sađam Husên.  Trong nội các của ông Bush thì dư luận có thể sẽ không tin ông Dick Cheney, vị phó tổng thống hay ông Donald Rumsfeld, bộ trưởng của Ngũ Giác Đài vì hai ông này vốn đậm về phe Diều Hâu nhưng người ta có thể tin ông Colin Powell, bộ trưởng Bộ Ngoại Giao vì tính tình điềm đạm và tài mưu lược của ông.  Bởi vậy mặc dù tòa Bạch Ốc và báo chí đã sản xuất ra hàng loạt những nguồn tin tức đáng tin cậy nhưng không mấy ai tin cho đến khi ông Colin Powell lên trình bày với Liên Hiệp Quốc để xin thẩm quyền tấn công Iraq.  Chuyện của ông Colin Powell lên Liên Hiệp Quốc đã trở thành một vết nhơ trong cuộc đời phục vụ vì dân vì nước và ông đã thường xuyên hối hận về sau.


Thực tế là từ khi trận đánh vùng vịnh năm 1991, sau khi ông Bush cha và quân chư hầu đánh Sađam rút ra khỏi nước Kuwait và áp dụng chính sách cấm vận làm cho nền kinh tế của Iraq kiệt quệ.  Cho đến thời của tổng thống Bill Clinton thì sự cấm vận đã gây thiệt hại nặng nề.  Mỗi năm khoảng 500,000 em bé Iraq vô tội bị chết vì thiếu dinh dưỡng và thuốc men.  Khi được hỏi về con số trẻ em Iraq bị chết hằng năm trong cuộc họp báo “Meet The Press”, bà Madeleine Albright, lúc đó là bộ trưởng Bộ Ngoại Giao, đã trả lời rằng: “It’s worth it!”  có nghĩa là sự chết của các trẻ em Iraq vô tội xứng đáng để trừng trị Sađam Husên.
Bởi vậy, câu chuyện của ông Bush con tuyên truyền để đánh nước Iraq với lý do Irag có vũ khí giết người hàng loạt nhằm thực hiện mưu đồ đế quốc của mình đã trở thành trò hề cho thế giới vì sau trận chiến không ai tìm ra được một mảnh vụn vũ khí giết người hàng loạt nào của ông Sađam Husên cả.  Cũng vì sự lừa đảo này, vị Thủ Tướng nước Tây-ban-nha là ông Jose Maria Aznar và ông Tony Blair của nước Ăng-lê bị rơi chức.  Ông Bush con tuy không bị mất chức nhưng dân chúng đã cột tay của ông bằng cách bầu những vị ứng cử viên thuộc đảng Dân Chủ lên nắm Thượng Viện và Hạ Viện vào cuối năm 2006.  Cuộc viếng thăm nước Iraq cuối cùng của ông Bush vào năm 2008 được tiếp đón bằng hai chiếc dày của nhà phóng viên Muntadar al-Zaidi đã thành một trò hề đối với vị nguyên thủ quốc gia của Mỹ.
 Bài học của năm 2003 trong cuộc tiến chiếm nước Iraq của tổng thống Bush là ông đã đưa ra những tang chứng ma để phục vụ cho mộng bá chủ hoàn cầu của phái Diều Hâu.  Nhưng trong suốt quá trình tuyên truyền chính trị dẫn đến chiến tranh, các tài liệu tình báo rẻ tiền được trình bày trước Liên Hiệp Quốc và Quốc Hội Mỹ đã làm cho dân chúng và thế giới cứ tưởng như thật!
Trở lại với vấn đề người Chăm đòi lại đất đai.
Dân số người Chăm hôm nay gồm khoảng 100 ngàn người sống rời rạc tại nông thôn và miền núi, nghèo đói và lạc hậu so với tập thể khổng lồ hơn 84 triệu dân Việt Nam.  Sau 1975, dân tộc Chăm đã trở thành một tập thể vô sản, không có đất đai để canh tác, nghèo đói, không có người biết lái xe con và cũng không mấy ai biết hành nghề đánh máy, một năm chỉ có vài người sinh viên lên cấp đại học… thế thì vấn đề đòi đất đai để tái lập một vương quốc Champa để làm gì"
Cũng vì thực trạng xã hội Chăm hôm nay vẫn còn đang lạc loài trong sự bần cùng, nhân tài còn hiếm hơn lá rụng mùa đông, Tiến sĩ Po Dharma, vị giáo sư gốc Chăm thuộc Viện Viễn Đông Bác Cổ - Pháp, đã trả lời với đài truyền hình Dân Sinh trong ngày Đại Hội Văn Hóa Champa tại San Jose vào ngày 7 tháng 7 năm 2007 rằng:  “nếu Việt Nam có ban ân huệ cho người Chăm hôm nay một thể chế tự trị thì chúng tôi cũng không dám tiếp nhận!”
Vào năm 2001 và 2004, tình hình ở Cao Nguyên rất là nóng bỏng.  Đó là những năm mà các dân tộc thiểu số ở vùng này đã cùng nhau đứng lên chống chính quyền về việc cưỡng chiếm đất đai bất hợp pháp.  Cuộc vùng dậy đó bị chính quyền CS đàn áp dã man, hàng ngàn người đã chạy sang lánh nạn ở tỉnh Monđokiri, Cam Bốt.  Sau khi dẹp tan cuộc biểu tình, chính quyền CSVN đã bố trí hệ thống tình báo dầy đặc ở Cao Nguyên đến nỗi một con ruồi bay qua cũng không lọt thì vấn đề Hậu-Fulro đứng lên để đòi đất đai hay đòi quyền tự trị thì làm sao thoát khỏi hệ thống tình báo của họ"  Cho nên nói rằng Fulro/Chăm phối hợp với TQ để dành lại chủ quyền của vương quốc Champa là vấn đề vượt ngoài sự tưởng tượng của mọi người nhất là đối với dân tộc thiểu số.  Quả thật, đã có một thời vương quốc Champa trải dài từ Quãng Bình cho đến Bình Tuy nhưng hôm nay nó chỉ có giá trị như một dữ kiện lịch sử chứ không ngoài gì hơn.
Sau cuộc tấn công vào Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế vào năm 2001, dân chúng tại Mỹ sống trong cảnh phập phòng lo sợ vì lúc nào cũng sợ bị bọn khủng bố tấn công bất ngờ.  Bộ Bảo Vệ An Ninh Quốc Gia (Homeland Security) phát minh ra một hệ thống báo động sự đe dọa khủng bố bằng chỉ số bằng màu. Với nguồn tin đáng tin cậy chỉ số khủng bố sẽ tăng từ màu vàng lên màu cam và đôi lúc nhảy lên màu đỏ, nghĩa là thập phần nguy hiểm… Vấn đề người Chăm đòi đất đai cũng tương tự.  Nó là chiêu bài mà các chính trị gia, các đảng phái chính trị cũng như chính quyền CSVN dùng để chụp mũ hoặc đàn áp dân tộc bản địa và là nguyên nhân gây ra sự chia rẽ hận thù giữa hai dân tộc cùng san sẻ một mảnh đất trên nước Việt Nam.  Nó làm cho dư luận xôn xao nhưng thực chất chỉ là một con số KHÔNG to tướng.
Xã hội Tây-Âu là nước tự do dân chủ. Ai cũng có quyền bày tỏ cảm nghĩ của mình. Tuy nhiên, sự thật và chính nghĩa không bao giờ lu mờ trước những bằng chứng không có cơ sở.  Những lối hành văn dựa theo “nguồn tin đáng tin cậy…” nhằm chụp mũ một cộng đồng vô tội vạ sẽ đưa đến nhiều điều nghi ngờ đáng tiếc.  Hiện tại, thế giới càng đang thu hẹp nhỏ lại dưới sự tân tiến.  Cùng một lúc tinh thần đa chủng tộc biểu lộ ngày càng nhiều hơn. Chúng ta nên tạo sự cảm thông và thương yêu lẫn nhau.  Đó là yếu tố xây dựng sự hài hòa ấm no cho mọi người trong tương lai.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.