Hôm nay,  

Cơn Bão Tuyết Ngoại Giao Của Thứ Trưởng Ngoại Giao Mỹ

21/01/200800:00:00(Xem: 9928)

Ngày 18/1, theo lịch trình thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Negroponte sẽ chính thức thăm viếng Việt Nam trong hai ngày, sau khi gặp các giới chức Trung quốc tại thành phố Quý châu trong tỉnh Sheng ở tây nam Trung quốc ngày 17/1 trong một cuộc gặp gỡ định kỳ mỗi năm hai lần giữa nhân viên ngoại giao cao cấp của hai nước.

Với vị thế quan trọng của thứ trưởng Negroponte tại bộ ngoại giao Hoa Kỳ (1) và quan hệ đang rất tế nhị giữa Việt Nam và Trung quốc liên quan đến vụ Tam Sa, chuyến thăm viếng của ông Negroponte được giới quan sát và truyền thông quốc tế theo dõi thật sát, cho rằng đây là một cuộc thăm viếng quan trọng liên quan đến tình hình Đông Nam á châu - Thái Bình Dương và mối quan hệ tay ba Hoa Kỳ-Trung quốc-Việt Nam.

Nhưng sáng ngày 18/1, tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội thông báo chuyến thăm viếng Việt Nam của ông Negroponte bị hủy bỏ vì thời tiết xấu tại Quý châu không cho phép máy bay ông cất cánh.

Không ai tin thời tiết đã ngăn trở chuyến bay. Muốn đi thì ông chỉ cần dùng đường bộ đến một thành phố khác gần đó để lấy máy bay khác khó gì. Thời đại này, thời tiết cũng chưa làm trở ngại được sự di chuyển của một viên chức nước nhỏ, nói gì cản trở một cuộc du hành quan trọng của một thứ trưởng ngoại giao của đệ nhất đại cường trên thế giới.

Vậy vì lý do gì ông Negroponte hủy bỏ chuyến đi. Có thể có ba lý do. Thứ nhất Hoa Kỳ tự ý hủy bỏ. Thứ hai Trung quốc khuyến cáo hay áp lực ông Negroponte hủy bỏ. Thứ ba là Hà Nội yêu cầu hoãn lại chuyến công du và ông Negroponte quyết định hủy bỏ luôn.

Lý do thứ nhất không vững, vì chương trình công tác của một thứ trưởng quan trọng như ông Negroponte không thể thay đổi đột ngột như vậy. Lý do Trung quốc áp lực trực tiếp với ông Negroponte lại càng khó tin. Tế nhị ngoại giao (về phía Trung quốc) và tự ái nước lớn (về phía Hoa Kỳ) không cho phép ông Negroponte nhượng bộ trước áp lực của Trung quốc. Chỉ còn gỉa" thuyết thứ ba là Việt Nam yêu cầu hủy bỏ chuyến đi. Nhưng điều khả dĩ hơn có thể là Trung quốc áp lực Việt Nam hoãn tiếp ông thứ trưởng Negroponte cho đến sau khi ông Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao Pham Gia Khiêm thăm Trung quốc (như đã loan báo) trong thời gian từ  22 -26 trong tháng này, và Việt Nam đã nhượng bộ Trung quốc yêu cầu hoãn lại.

Trong lần xuất chiêu này Trung quốc lại một lần nữa ghi điểm trong ván bài tay ba Trung quốc-Hoa Kỳ-Việt Nam cũng như năm 2007 Trung quốc đã ghi một bàn khi áp lực Việt Nam buộc Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết sang thăm Trung quốc ngoài chương trình trước khi công du Hoa Kỳ.

Một chút éo le đối với Hoa Kỳ là nếu ông John Negroponte đến Việt Nam như dự định ông sẽ có mặt tại Hà Nội trong ngày 19/1 vào lúc người Việt khắp nơi trên thế giới đang làm lễ kỷ niệm trận hải chiến chống Trung quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam 34 năm trước. Trận đánh chiếm này có bàn tay người Mỹ sau lưng (xem Biển Đông Dậy Sóng), và câu hỏi tự nhiên đến là ông Negroponte tới Việt Nam sau khi công du Trung quốc có liên hệ gì đến ván bài Trường Sa giữa Hoa Kỳ và Trung quốc không.

Đó chỉ là giả thuyết vì thế địa lý chính trị hôm nay giữa Hoa Kỳ-Trung quốc-Việt Nam khác hẵn thế địa lý chính trí giữa Trung quốc và Hoa Kỳ của thập niên 1970. Ván bài này Hoa Kỳ đánh khác chứ không đánh như kiểu năm 1974 nữa. Thế tay ba Hoa Kỳ-Trung quốc-Việt Nam bây giờ buộc Hoa Kỳ bênh vực Việt Nam để cho quần đảo Trường Sa không lọt vào tay Trung quốc.

Và đó có thể là đề tài trao đổi chính khi ông Negroponte định đến Việt Nam.

Trong quan hệ tay ba giữa Hoa Kỳ-Trung quốc-Việt Nam trong 5 năm qua chúng ta thấy có một sự xích lại gần nhau giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, và một sự cẩn trọng nào đó của Việt Nam đối với Trung quốc. Nếu có nhiều cuộc thăm viếng thân hữu giữa các giới chức cao cấp Việt Nam và Trung quốc thì cũng có hằng loạt những cuộc thăm viếng quan trọng giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.

Công du Hoa Kỳ: Tháng 11/2003 bộ trưởng quốc phòng Phạm Văn Trà. Tháng 6/2005 thủ tướng Phan Văn Khải. Tháng 1/2007 thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, tháng 6 cùng năm chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết.

Về phía Hoa Kỳ tháng 12/2003 chiến hạm tối tân của hải quân Hoa Kỳ USS Vandergrift đến thành phố Sài gòn mang theo những hình ảnh áo trắng lon vàng rực rỡ của những người thủy thủ và sĩ quan hải quân Hoa Kỳ trên đường phố Sài gòn làm tan biến mây mù của chiến tranh và thù hận từng bao trùm hai nước. Cuối năm 2006 tổng thống Bush thăm viếng Hà Nội nhân đi tham dự hội nghị thường niên các nước ven Thái Bình Dương APEC. Trước khi đi Hoa Kỳ cất bỏ Việt Nam ra khỏi danh sách các nước đáng quan tâm (CPC) vì vi phạm tự do tín ngưỡng (mặc dù Hà Nội đã không thật sự cải thiện chính sách tôn giáo mà chỉ là những thay đổi màu mè) và sau đó Hoa Kỳ đã giúp Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Mậu dịch Thế giới – WTO).

Sự xích lại này chứng tỏ những người lãnh đạo tại Hà Nội thấy có nhu cầu liên kết chiến lược với Hoa Kỳ để giải tỏa dần áp lực của ông anh phương Bắc. Và Hoa Kỳ cũng đáp ứng được nhu cầu làm vững mạnh thêm thế chiến lược của mình tại tây Thái Bình Dương.

Tuy nhiên trước việc Trung quốc ra quyết nghị thành lập thành phố cấp huyện Tam Sa bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa Hoa Kỳ đã im lặng. Không một giới chức Hoa Kỳ nào đá động đến, xem như đó là chuyện của ai chứ không liên quan đến mình mặc dù ai cũng biết Hoa Kỳ đang theo dõi biến chuyển của cuộc tranh chấp giữa Việt Nam và Trung quốc một cách lo âu. Nếu Trường Sa quan trọng đối với Trung quốc như thế nào, Trường Sa cũng quan trọng đối với Hoa Kỳ như vậy. Chưa nói vị trí chiến lược của Trường Sa nằm  trên con đường biển từ eo Malacca lên phía Bắc Thái Bình Dương, dưới đáy của nó hứa hẹn một túi dầu hỏa và khí đốt chưa biết đích xác trữ lượng nhưng chắc là không nhỏ. Và dầu hỏa trong tay đồng minh còn là huyết mạch của Hoa Kỳ trong nhiều thập niên tới.

Vụ thành lập thành phố Tam Sa của Trung quốc là một viên đạn bắn hai con chim. Trung quốc muốn nói với Việt Nam họ không hài lòng thái độ nghiêng về Hoa Kỳ của Hà Nội. Đối với Hoa Kỳ Trung quốc tỏ ra muốn mở rộng không gian sinh tồn và sẵn sàng thách thức với lực lượng biển của Hoa Kỳ.

Ngay sau vụ Tam Sa, đố đốc Timothy Keating, tư lệnh các lực lượng Mỹ tại Thái Bình Dương đã đến Việt Nam. Tin tức không nói nhiều đến nội dung chuyến đi của ông nhưng chắc hẵn không ra ngoài vụ Tam Sa. Và chuyến đi (bỏ lỡ) của thứ trưởng John Negroponte phải là một nước bài trong toàn cảnh.

Nước bài chưa đánh được vì thái độ bất nhất của chính quyền Hà Nội. Cho đến giờ này không một giới chức cao cấp của chính quyền Hà Nội là quý ông Nông Đức Mạnh (tổng bí thư đảng), Nguyễn Minh Triết (chủ tịch nước), Nguyễn Tấn Dũng (thủ tướng) và Nguyễn Phú Trọng (chủ tịch quốc hội), cả bốn đều là Ủy viên Bộ chính trị, hé môi nói một lời nào về vụ Trung quốc sát nhập đất của Việt Nam. Ngoài lập trường công khai do phát ngôn nhân Lê Dũng nhiều lần xác nhận Trường Sa là của Việt Nam, chính quyền Việt Nam không có một chuẩn bị nào về mặt quần chúng, về mặt quốc tế, và về mặt quân sự nếu Trung quốc đưa tàu chiến ra chiếm đóng Trường Sa. Trung quốc chưa ra tay vì họ đang chuẩn bị thế vận hội mùa hè 2008 và họ không muốn tạo ra bất cứ cuộc khủng hoảng nào có thể ảnh hưởng đến sự thành công của Thế vận hội. Nhưng qua năm 2009, mọi chuyện có thể khác. Và nếu Việt Nam cứ giữ thái độ lừng khừng như hiện nay thì quá muộn.

Nếu tìm hiểu thái độ của Hà Nội trước việc Trung quốc lấn chiến Hoàng Sa với một thái độ thông cảm chúng ta có thể nghĩ Việt Nam chọn thái độ dè dặt. Thí dụ như giới chức cao cấp và quốc hội không lên tiếng, để cho dân chúng biểu tình một cách tượng trưng rồi cấm cản, không đưa vấn đề ra trước Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc để tránh chọc giận Trung quốc. Việt Nam ngại những động thái như vậy có thể làm ảnh hưởng mối bang giao với Trung quốc, và kết quả sẽ không có lợi về phía Việt Nam vì Trung quốc có thể trả đũa về mặt kinh tế nếu không muốn nói là quân sự mà Việt Nam hoàn toàn chưa chuẩn bị để đối phó. Việt Nam cũng có thể đang dò xem Hoa Kỳ có thể làm được gì trong vấn đề tranh chấp này vì Việt Nam thừa biết Hoa Kỳ cũng đang rất quan tâm.

Tuy nhiên, nếu trước một vấn nạn quốc gia, nhất là trước nạn xâm lăng người lãnh đạo có thể dùng giải pháp đương đầu bằng quân lực hay tìm cách giải quyết trên bàn thương thuyết, nhưng điều quan trọng là lãnh đạo phải đoàn kết và thống nhất ý kiến trong việc đi tìm đường lối đáp ứng. Các dấu hiệu hiện nay cho thấy nội bộ lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam có sự chia rẽ trầm trọng, chia rẽ giữa phe dùng phương pháp ôn hòa đối với Trung quốc để giữ đất và phe chủ trương tìm thế quốc tế (nói cách khác là Hoa Kỳ) để bảo vệ lãnh thổ. Và sự chia rẽ này đang làm tê liệt chính quyền Việt Nam. 

Lịch sử Việt Nam dạy rằng đối với Trung quốc tối hậu là phải giảng hòa mới giữ được nước, nhưng lịch sử cũng chỉ ra rằng chỉ giảng hòa sau khi đánh cho Trung quốc liểng xiểng. Còn nếu giảng hòa ở thế yếu thì chỉ là dâng thịt cho mãnh hổ. Sự chia rẽ nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam đang làm cho Việt Nam hoàn toàn thụ động và lúng túng.

Đảng Cộng sản Việt Nam cần phải làm gì" Trước hết quốc hội Việt Nam phải ra quyết nghị xác định chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đảng phải huy động toàn lực của nhân dân bằng chính sách cởi mở dân chủ, ban hành tự do ngôn luận trong giới hạn để toàn dân một lòng cương quyết chống xâm lăng. Đảng Cộng sản Việt Nam với lực lượng công an chuyên nghiệp trong tay có cần phải sợ nhân dân nhân dịp biểu  tình lật đổ chính quyền không" Đảng Cộng sản Việt Nam cần liên minh với các quốc gia đồng quyền lợi, trước hết là Hoa Kỳ, thứ đến là Ấn độ, Úc châu, khối Asean và Liên hiệp Âu châu để họ cùng tham gia bảo vệ thủy lộ trên biển Đông và không để tài nguyên thiên nhiên ở đó lọt vào tay Trung quốc. Và sau cùng cải tổ cấp tốc lực lượng hải quân.

Có rất nhiều điều có thể làm trong khuôn khổ chủ quyền quốc gia trong khi vẫn có thể giữ quan hệ ngoại giao tốt với Trung quốc. Nhưng rất tiếc một chính quyền chia rẽ nội bộ thì không thể có chính sách nhất quán.

Lịch sử 4000 năm của Trung quốc chứng tỏ rằng khi nào Trung quốc mạnh là Trung quốc tìm cách bành trướng. Họ đã manh tâm thôn tính Việt Nam dưới các triều Nguyên (thế kỷ 13) triều Minh (thế kỷ 15), triều Mãn thanh (thế kỷ 18), nhưng rất may lần nào nhân dân Việt Nam cũng đồng tâm nhất trí thống nhất ý chí chống giặc giải phóng quê hương dưới sự lãnh đạo của các anh quân triều Trần, triều Lê, Quang Trung Nguyễn Huệ nên lần nào chúng ta cũng đánh tan tác đuổi quân thù trở về biên cương của họ buộc họ phải để yên cho chúng ta tồn tại như một quốc gia độc lập.

Lần này sau 5 thế kỷ lu mờ, Trung quốc lại trổi dậy như một siêu cường. Mộng xâm lấn Việt Nam trở thành một mối ám ảnh của Trung quốc. Việt Nam đang đứng trước một mối nguy. Không phải chỉ những hải đảo xa xôi bị đe dọa mà ngay sơn hà xã tắc cũng có thể lọt vào tay Trung quốc nếu có một biến chuyển quốc tế bất ngờ. Nguy không phải vì nhân dân Việt Nam không còn quyết tâm chống xâm lăng nhưng nguy là trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng mà lãnh đạo Việt Nam đang chia rẽ.

Sư chia rẽ nội bộ của đảng Cộng sản Việt Nam trước vụ Tam Sa được bộc lộ rõ qua chuyến đi bị hủy bỏ của thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ John Negroponte ngày 18/1 vừa qua. Một cơ hội tốt đã bị bỏ qua.

Trần Bình Nam

Jan 19, 2008

(kỷ niệm 34 năm trận chiến Hoàng Sa)

[email protected]

www.tranbinhnam.com

* Ông Negroponte là một thứ trưởng, nhưng ảnh hưởng của ông trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ có thể lấn cả ảnh hưởng của bà ngoại trưởng Condoleezza Rice.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.