Hôm nay,  

Vị Trí Của Người Phụ Nữ Trong Giáo Hội Công Giáo La Mã

01/05/201000:00:00(Xem: 8987)

Vị Trí Của Người Phụ Nữ Trong Giáo Hội Công Giáo La Mã

Trần Bình Nam
Lời nói đầu: Vấn đề tu sĩ giáo hội Công giáo vi phạm tình dục tại Boston,  Hoa Kỳ bùng nổ năm 2002. Giáo hội Công giáo đã tìm cách giải quyết, và vấn đề lắng xuống một thời gian. Gần đây vấn đề lại xuất hiện và đụng chạm đến đức Giáo hoàng Benedict về phong cách ngài giải quyết vấn đề vi phạm tình dục của các linh mục trong thời gian ngài còn là Hồng Y. Tờ tuần báo NEWSWEEK số ngày 12 tháng Tư, 2010 qua bài viết “A Woman’s place is in the Church” của bà Lisa Miller đã phân tích cặn kẽ nguyên nhân và hậu quả của vấn đề tu sĩ và tình dục, và phương thức giải quyết. Tôi xin lược dịch sau đây.
** Trần Bình Nam **
--:o0o:--
Giáo hội Công giáo La mã là một định chế gồm đa số đàn ông tồn tại lâu đời và vững bền nhất thế giới. Giáo hội đang tìm cách gỉải quyết một vấn đề nội bộ: Một số linh mục vi phạm tình dục với trẻ em và con chiên.
Trong mấy chục năm qua các vị linh mục tại Hoa Kỳ, Âu châu, Ireland, Brazil và nhiều nơi khác đã gợi tình dục và hiếp dâm trẻ em tại nơi cắm trại, trên xe, trong phòng ngủ hay tại phòng xưng tội. Một số rất ít nạn nhân trẻ em này đã có can đảm tiết lộ với mẹ hay chị. Và một số các bà mẹ, bà chị này đã trình với các vị giám mục xin giải quyết thì đều bị các vị giám mục lờ đi và khuyên nên im đi thì hơn.
 Trước sự vi phạm tình dục trong Giáo hội, người phụ nữ luôn luôn được khuyên bảo nên nhẫn nhục chịu đựng. Họ cầu nguyện xin đức Mẹ cứu giúp cũng không được đáp lại.
Kết quả, các nam tu sĩ trong Giáo hội được giao phó giải quyết vấn đề tế nhị này bị mất uy tín. Các viên chức tôn giáo này hình  như  không thông cảm được sự đau khổ của con chiên. Tại các buổi giảng đạo nếu cần nói lời xin lỗi con chiên họ đã xin lỗi một cách máy móc.
Người ta không quên hình ảnh đức Hồng y Timothy Dolan tại Palm Sunday ở New York lên án sự vi phạm tình dục tại giáo đường của ngài với cung cách một ông giám đốc đại công ty (dạy bảo nhân viên). Một đoạn phim YouTube khác cho thấy đức Hồng y Sean Brady tại Ireland, nơi – trong 40 năm liền – có 15.000 trẻ em bị các tu sĩ xâm phạm tình dục thản nhiên bác bỏ mọi lời yêu cầu ông từ chức của con chiên.
Và mới đây khi tờ New York Times tiết lộ rằng Đức Giáo hoàng Benedict XVI (khi ngài còn là Hồng y Joseph Ratzinger ngồi tại Vatican phụ trách việc giải quyết sự vi phạm tình dục trong Giáo hội) đã không cách chức một linh mục vi phạm tình dục với 200 đứa trẻ điếc tại Winconsin, ngài đã gạt đi và cho rằng báo chí có ác ý. Ngài nói rằng “không vì tin đồn và dư luận mà mất đức tin”. Thái độ chung cho thấy đức Giáo hoàng và  các phụ tá của ngài (Hồng y, Giám mục) chưa hiệp thông với nỗi đau của con chiên.
Vấn đề cốt lõi không phải là - như nhiều người ngoài giáo hội tin - giáo hội không hiểu nỗi khổ của con chiên vì họ là những người sống độc thân (celibacy) và vì lối sống quá cách biệt quần chúng của họ. Thật ra, lý do chính vì các vị Hồng y và Giám mục sống trong tháp ngà của một giáo hội khép kín theo mẫu mực của thời Tiền Khai Sáng (pre-Enlightenment) trước thế kỷ thứ 18, không bị - và không muốn bị - ảnh hưởng bởi cuộc cách mạng dân chủ tại Pháp và tại Hoa Kỳ. Về phương diện luân lý Giáo hội đặt quyền lợi của Giáo hội trên quyền lợi của cá nhân và xem sự tiến bộ là một hiện tượng đe dọa Giáo hội. Người Tây phương coi trọng sự tự do cá nhận nên bức rức khi thấy Giáo hội xem sự gắn bó với Giáo hội là trên hết. Hai bên không gặp nhau vì vậy.
Vì không coi trọng sự tiến bộ xã hội,  Giáo hội không quan tâm đúng mức vai trò của người phụ nữ trong lực lượng sản xuất và những gì phụ nữ đã đóng góp và phục vụ đời sống công cọng. Tại Hoa Kỳ có 30 triệu phụ nữ làm việc toàn thời gian. Tại Âu châu 60 triệu. Cách đây 50 năm, các người chủ chăn các nhánh Tin Lành đã tìm cách ngăn chận bước tiến của phụ nữ nhưng không thành công. Nhóm Lutheran tại Đan Mạch đã cho phép phụ nữ trở thành mục sư năm 1948 . Tại Hoa Kỳ người phụ nữ đầu tiên được phong mục sư năm 1976 thuộc giáo phái Episcopalian. Thế nhưng trong Giáo hội Công giáo các tu sĩ vẫn sống và làm việc như họ đã làm cả nghìn năm nay. Không lập gia đình, không thân mật, không quan hệ nghề nghiệp với phụ nữ, và không hề biết về đời sống gia đình và con cái của con chiên. Và khi một tu sĩ Công giáo rời khỏi xứ đạo, họ càng bị cách biệt trong tháp ngà hơn nữa. Bà Elaine Pagels, giáo sư về tôn giáo tại đại học Princeton nói rằng: “Giáo hội hoàn tòan không quan tâm gì đến sự an toàn của trẻ em (trước sự xâm phạm tình dục của các tu sĩ). Đối với chúng ta đó là một thái độ đứng ngoài sinh hoạt xã hội thật khó giải thích. Nhưng quả thật các tu sĩ giáo hội không muốn sinh hoạt hài hòa với xã hội.”
Đã đến lúc Vatican thực hiện những gì Giáo hội phán dạy. Công Đồng II họp đầu thập niên 1960 đã có nỗ lực hội nhập lối sống cũ xưa với đời sống mới.
Qua văn bản của Công Đồng II,  Giáo hội đã công nhận vị trí của người phụ nữ trong xã hộị một cách minh bạch rằng: “Người phụ nữ đã có một vai trò quan trọng trong xã hội như chưa từng có về ảnh hưởng, tác dụng cũng như quyền lực. Do đó đã đến lúc người phụ nữ có thể làm những công tác của Phúc Âm để cứu vãn nhân loại đang đi xuống.”
Năm 1988, đức Giáo Hoàng John Paul II, trong một lá thư nhan đề Mulieris Dignitatem (On the Dignity of Women – Giá trị cao quý của người  phụ  nữ ) đã đề cao sự quan trọng của người phụ nữ đối với Giáo hội. Tuy nhiên 6 năm sau, ngài không quên nhắc lại Giáo hội chưa thể cho phép phụ nữ thụ phong linh mục.
Sự khác biệt giữa nguyên tắc và thực tế của Giáo hội quá rõ ràng. Tại Hoa Kỳ 60% người đi nhà thờ là phụ nữ, và số tiền 6 tỉ mỹ kim thu được mỗi năm sau các buổi lễ do đa số phụ nữ cho. Thế nhưng người phụ nữ không có một chỗ đứng nào trong bộ máy quyền lực của Giáo hội. Tại Vatican, số phụ nữ có một chức vụ nào đó có thể đếm trên đầu ngón tay. Phụ nữ cũng rất ít được giữ các chức vụ điều hành quan trọng tại các giáo phận. Và mặc dù số nữ tu nhiều gấp bội số linh mục, ít ai thấy sự có mặt của họ. Đến nổi gần đây khi một nhóm nữ tu lên tiếng về vấn đề cải tổ hệ thống bảo hiểm sức khỏe, dư luận mới nhớ ra là có một tập thể các nữ tu trong Giáo hội.
Bà Kathleen McChesney, một viên chức FBI có nhiệm vụ điều tra các vụ vi phạm tình dục trong Giáo hội Công giáo sau các vụ tố cáo tại Boston năm 2002 nhận xét rằng: “Tại Vatican không có một phụ nữ nào tham dự vào cuộc điều tra này. Vatican xem đây là chuyện của đàn ông.”
Tháng Ba vừa qua, bà Kerry Robinson, giám đốc cơ sở National Leadership Rondtable, một cơ sở gồm các nhà kinh doanh Hoa Kỳ lập ra với mục đích thuyết phục Giáo hội áp dụng nguyên tắc kinh doanh vào sự điều hành Giáo hội, đã cùng với một số phụ nữ khác đi Vatican để nói chuyện với các vị Hồng y.  Bà Robinson nói: “Người phụ nữ trẻ tuổi nào trong thế giới kinh doanh cũng có thể nhìn thấy cơ hội thăng tiến của mình. Và họ rất khó chịu khi không thấy một cơ hội thăng tiến nào như vậy trong Giáo hội.  Giáo hội thấy như mình không liên quan gì đến phụ nữ, và do đó thấy không liên quan gì đến con cái của họ.”
Bà Robinson nhận xét thêm: “Dư luận cho rằng có vấn nạn vi phạm tình dục là vì Giáo hội chỉ toàn đàn ông: đàn ông gây nên tội lỗi, đàn ông che dấu và đàn ông duy trì. Cho nên cách tốt nhất là cho  thêm nhiều phụ nữ vào sinh hoạt của Giáo hội”


Nhưng để phụ nữ tham gia vào công cuộc bài trừ tệ nạn vi phạm tình dục cũng không phải là phương thuốc hiệu nghiệm nhất. Lịch sử chứng minh rằng người phụ nữ có quyền lực trong tay cũng tàn bạo và hư đốn như đàn ông.
Nhưng rõ ràng là các giới chức của Giáo hội đã đáp ứng một cách chậm chạp khi vụ vi phạm tình dục năm 2002 tại Hoa Kỳ được phanh phui. Giáo hội đã giải quyết theo cung cách bảo vệ quyền lợi và uy tín của Giáo hội hơn là bênh vực quyền lợi của trẻ em trước công lý.
Mục sư Marie M. Fortune thuộc nhánh Tin Lành United Church of Christ, người sáng lập Viện Faith Trust Institute nhằm mục đích bài trừ sự vi phạm tình dục của giới tu sĩ nói rằng: “Giáo hội Công giáo có thể đưa các vị linh mục vi phạm tình dục ra khỏi hệ thống Giáo hội và lột áo dòng của họ.” Nhưng Giáo hội không làm như vậy vì Giáo hội là một hội “của đàn ông” cực kỳ bảo thủ sinh hoạt ngoài lề đời sống của con chiên.
 Chúng ta ai cũng biết (và các cuộc nghiên cứu cũng chứng minh như vậy) rằng một nhóm người sinh hoạt riêng biệt, không có cơ chế kiểm soát thì trước sau cũng làm bậy. Trong cuốn sách: “The Company He keeps: A History of White College Fraternities”, ông Nicolas Syrett tiết lộ rằng 70 đến 90% các vụ hiếp dâm tập thể tại các đại học là do các thành viên của các hội toàn nam sinh viên (các Fraternities). Tuy nhiên giáo sư Syrett lưu ý rằng “nam thành viên trong các Fraternities làm tình với bao nhiêu thiếu nữ không ai chê trách, trong khi Giáo hội tuyệt đối cấm đoán tình dục.”
Ông Syrett kết luận, trong cả hai trường hợp “người đàn ông được khuyến khích để nghĩ rằng họ có uu tiên hơn phụ nữ, và nếu Giáo hội không trừng phạt các tu sĩ vi phạm tình dục thì các trẻ em bị lợi dụng có thể có cảm tưởng rằng những gì các tu sĩ làm chưa hẵn là sai trái.”
Ông Richard Sipe, một  tu sĩ hoàn tục có 30 năm nghiên cứu và đo lường kết quả của chương trình gíáo dục tình dục của Giáo hội kết luân rằng: “Giới tu sĩ tự cho mình là một tầng lớp riêng biệt có đặc ân.”
Chúa Jesus không hề dạy rằng vai trò của người phụ nữ đối với Giáo hội của Chúa là thứ yếu. Là chủ chăn của một tập thể nhỏ có tinh thần tiến bộ, Chúa Jesus khuyến khích mọi thành phần tham dự, trong đó có phụ nữ đã có gia đình hay còn độc thân. Và kinh Phúc Âm nói người phụ nữ có một vai trò quan trọng. Phụ nữ  là người đầu tiên chứng kiến Chúa sống lại và rao truyền tin lành lại cho các đệ tử phái nam.
Người ta tin rằng phụ nữ đã đóng một vai trò quan trọng trong Giáo hội trong thời kỳ sơ khai. Trong một lá thư gởi cho cư dân thành La Mã viết khoảng năm 50, thánh Paul có nói đến phụ tá (deacon) Phoebe, và những phụ tá khác như Prisca, Tryphena và Tryphosa. Toàn là phụ nữ. Trong thư thánh Paul có nhắc đến tên một vị thánh khác (trong 12 vị thánh giúp Chúa truyền bá Phúc Âm) là bà Junia.
Tuy nhiên nếu cho rằng trong một hai thế kỷ đầu tiên của Giáo hội Công giáo là thời đại hoàng kim của phụ nữ thì hẵn không đúng. Trong thời gian đó, người phụ nữ vẫn được xem là công dân hạng hai cần được đàn ông kiểm soát. 
Vào thế kỷ thứ hai nhà truyền giáo Clement of Alexandria nói, mặc dù trên thực tế hàng giáo phẩm và ngay cả các đức Giáo hoàng đều có vợ, người phụ nữ có khả năng khơi động tình dục nơi người đàn ông làm cho họ bị liệt vào thành phần mê hoặc người khác vào vòng tội lỗi (như Eve), và đồng lõa với quỹ Satan.
Vào thế kỷ thứ 12, nỗ lực tách biệt  đàn ông với đàn bà trong Giáo hội hoàn tất. Từ năm 1139 hàng giáo phẩm phải sống độc thân trở thành quy luật. Tại các đại học lớn tại Âu châu, nơi người trí thức Công giáo nghiên cứu triết học, toán học, thiên văn học, khoa học, văn chương và thần học người phụ nữ hoàn toàn bị gạt ra ngoài các sinh hoạt này. Vào thời đó một người phụ nữ chỉ có thể nổi danh khi trở thành một nhà tiên tri hay một nhà thần bí học, và giới giáo phẩm xem người phụ nữ đó là đồ bỏ.
Giáo sư Kevin Schultz, một sử gia tại viện đại học Illinois ở Chicago giải thích rằng Giáo hội Công giáo chống lại tinh thần cá nhân, cái động lực làm nên cuộc cách mạng Pháp và Hoa Kỳ. Để chống lại tinh thần cá nhân giáo hội Công giáo cho làm sống lại thuyết Thomas Aquinas, đặc biệt điểm ông nhấn mạnh đến sự cần thiết đặt quyền lợi cộng đồng lên trên quyền lợi cá nhân, và dùng thuyết  Aquinas để chống lại cái mà Giáo hội gọi là văn minh đồi trụy. Giáo sư Schultz giải thích rằng thuyết Thomas Aquinas “tạo ra tinh thần chúng-ta-và-các-anh (us-versus-them) che chắn Vatican bằng một bức tường thành kiên cố và bí mật làm cho đức Giáo hoàng trở thành môt nhân vật toàn năng”
Có lẽ cách gỉải thích của giáo sư Kevin Schultz là cách giải thích tốt nhất hiện tượng xa cách giữa Giáo hội và quần chúng tiến bộ. Trong một thế giới mà cá nhân trở thành vô nghĩa trước tập thể, những ý tưởng cứng nhắc – có thể tốt hay xấu - có khi trở thành nguyên tắc của đạo lý .
Sự nâng Giáo hội lên tầm cao nhất giải thích tại sao một giáo hội có sứ mệnh phục vụ cho người bệnh tật và kẻ nghèo khó lại có thể quyết định không cho phép dùng condom để phòng ngừa sự lây lan của bệnh AID. Nó giải thích tại sao một giáo hội vốn coi gia đình là nền tảng lại có thể cấm các bà mẹ dùng thuốc ngừa thai. Và cũng giải thích tại sao một vị giám mục khi đối diện với một linh mục vi phạm tình dục với trẻ em trong giáo phận của mình có thể ngoãnh mặt đi không báo cáo với cảnh sát.
Để phá vỡ bức tường cách ly Giáo hội với quần chúng cần làm sống lại tinh thần của Công Đồng Vatican II. Đức Giáo hoàng John XXIII tuyên bố: “Tôi muốn mở rộng cánh cửa sổ Gíáo hội để chúng ta có thể nhìn ra ngoài và con chiên có thể nhìn vào trong.” Và bước đầu tiên là tiếp cận với phụ nữ.
Hơn 60% tín đồ Công giáo Hoa Kỳ ủng hộ ý kiến phong linh mục cho phụ nữ, nhưng những kẻ bảo thủ vẫn chưa đồng ý. Tại Hoa Kỳ số người tự nguyện đi tu để trở thành linh mục càng ngày càng ít, trong khi có đến 80% phụ nữ làm việc trong các giáo phận, cho nên việc phụ nữ trở thành linh mục chỉ là vấn đề thời gian.
Bà Eileen McCafferty DiFranc, một trong khoảng 100 người phụ nữ Hoa Kỳ nói rằng nhóm của bà đã được thụ phong linh mục bởi “một vị giám mục của tòa thánh La Mã”. Bà McCafferty đã bị Giáo hội khai trừ, nhưng bà không chấp nhận quyết định của Giáo hội. Bà nói “chúa Jesus không hề nói đàn bà không được làm linh mục”.
Tại Hoa Kỳ sự vi phạm tình dục tại các giáo phận giảm nhờ hoạt động của nhóm bà McChesne. Bà đã khuyến cáo thành lập tại mỗi giáo phận một ủy ban cố vấn tình dục gồm những chuyên viên và những người thật sự quan tâm đến sự an toàn của trẻ em. Bà McChesney nghĩ rằng các giáo phận trên thế giới và nhất là tại Vatican đều cần có một ủy ban như vậy. Bà nói: “Đức Giáo hoàng Benedict nên có một ủy ban cố vấn không phải chỉ toàn tu sĩ mà nên gồm chuyên viên về vi phạm tình dục đối với trẻ em, chuyên viên điều tra và chuyên viên giải quyết vấn đề.” Và  nếu các chuyên viên này là phụ nữ thì càng tốt.
Trong chuyến du hành qua Vatican, bà Kerry Robinson khéo léo lưu ý các vị Hồng y rằng từ lâu tại các buổi buổi lễ các linh mục không còn mang các chuyện liên quan đến phụ nữ trong kinh Phúc Âm và trong Cựu Ước ra đọc. Bà ngạc nhiên thấy nhiều vị Hồng y không biết có việc đó. Bà Robinson nói “Các vị Hồng y tham dự các khóa lễ hằng ngày nhưng họ không bao giờ tự hỏi người phụ nữ đi lễ mỗi ngày Chủ Nhật nghĩ gì.”
Nếu những câu chuyện về phụ nữ trong Kinh Thánh không được nhắc nhỡ tới thì người phụ nữ dần dà sẽ không xem mình là một phần của Giáo hội. Họ sẽ bỏ Giáo hội và mang theo con cái của mình.
Trần Bình Nam (lược dịch)
April 29, 2010
[email protected]
www.tranbinhnam.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong bối cảnh thế giới đang trải qua những biến động nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và công nghệ, toàn cầu hoá – vốn từng được xem là động lực chính thúc đẩy cho tăng trưởng và thịnh vượng – đang đứng trước những thách thức chưa từng có. Tiến trình công nghiệp hoá và toàn cầu hoá đã đem lại nhiều thành tựu vượt bậc trong suốt thời gian dài qua, từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, đặc biệt là thông qua sự chuyên môn hoá, tự do thương mại và tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, các cuộc khủng hoảng tài chính, đại dịch toàn cầu, chiến tranh và cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc đã khiến mô hình toàn cầu hoá truyền thống bộc lộ nhiều tình trạng bất ổn...
Nhiều thế hệ sống ở Sài Gòn những năm của thập niên 80-90, khi con gà trống của Thương Xá Tax chưa bị bức tử, khi những hàng cây cổ thụ trên đường Tôn Đức Thắng vẫn là nét thơ mộng của Sài Gòn, có lẽ đều quen thuộc với câu “Chương Trình Truyền Hình Đến Đây Là Hết…” Nó thường xuất hiện vào cuối các chương trình tivi tối, khi chưa phát sóng 24/24. Thời đó, mỗi ngày truyền hình chỉ phát sóng trong một số khung giờ nhất định (thường từ chiều đến khuya) nên hầu như ai cũng có tâm lý chờ đợi đến giờ ngồi trước màn ảnh nhỏ, theo dõi vài giờ giải trí. Đó cũng là chút thời gian quên đi một ngày cơ cực, bán mồ hôi cho một bữa cơm độn bo bo thời bao cấp. Nhắc nhớ chút chuyện xưa, để nói chuyện nay, đang diễn ra ở một đất nước văn minh hàng đầu, từng là niềm mơ ước của biết bao quốc gia về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận.
Trên mạng gần đây lan truyền một bức tranh chuỗi tiến hóa ngược nhại kiểu Banksy - vẽ hình ảnh tiến hóa quen thuộc từ khỉ tiến tới người, nhưng đến giữa chặng đường, một gương mặt ai cũng nhận ra quay lưng đi ngược lại về phía khỉ. Cái dáng ngoảnh đầu ấy khiến tôi chạnh lòng nghĩ đến hình ảnh nước Mỹ hôm nay. Giữa thế kỷ XXI, lẽ ra phải tiếp tục đi tới, nhưng thay vì mở rộng tự do học thuật – ngọn nguồn của sáng tạo – chúng ta lại thấy những dấu hiệu nước Mỹ thoái lui theo một quỹ đạo lạ lùng: thử nghiệm một kiểu “tiến hóa ngược”.
Từ khi Tối Cao Pháp Viện lật đổ Roe v. Wade, chúng ta đều biết câu chuyện không dừng lại ở đó. “Để tiểu bang tự quyết” chỉ là cái cớ. Và Texas, tiểu bang bảo thủ dẫn đầu, vừa chứng minh điều đó bằng một luật mới: trao cho bất kỳ ai quyền săn lùng và kiện những người dính dáng tới thuốc phá thai. Texas vốn đã có một trong những lệnh cấm khắc nghiệt nhất: phá thai bị cấm hoàn toàn, trừ vài ca y tế khẩn cấp. Không ngoại lệ cho thai dị tật chết non. Không ngoại lệ cho hiếp dâm. Không ngoại lệ cho loạn luân. Thế nên, nhiều phụ nữ Texas chỉ còn con đường tìm đến thuốc phá thai qua mạng, thường từ những nhà cung cấp ở ngoài tiểu bang. Luật mới nhắm thẳng vào cánh cửa mong manh ấy.
Suốt 250 năm, người Mỹ đồng ý rằng cai trị bởi một người duy nhất là sai lầm, rằng chính quyền liên bang vốn cồng kềnh, kém hiệu quả. Lẽ ra hai điều ấy đủ để ngăn một cá nhân cai trị bằng mệnh lệnh từ Bạch Ốc. Nhưng Trump đang làm đúng điều đó: đưa quân vào thành phố, áp thuế quan, can thiệp vào ngân hàng trung ương, chen vào quyền sở hữu công ty, gieo nỗi sợ để buộc dân chúng cúi đầu. Quyền lực bao trùm, nhưng không được lòng dân. Tỉ lệ chấp thuận của ông âm 14 điểm, chỉ nhỉnh hơn chút so với Joe Biden sau cuộc tranh luận thảm hại năm ngoái. Khi ấy chẳng ai lo ông Biden “quá mạnh”. Vậy tại sao Trump, dù bị đa số phản đối, vẫn dễ dàng thắng thế?
Có bao giờ bạn nói một điều rõ ràng như ban ngày, rồi nghe người khác nhắc lại với nghĩa hoàn toàn khác? Bạn viết xuống một hàng chữ, tin rằng ý mình còn nguyên, thế mà khi quay lại, nó biến thành điều bạn chưa từng nghĩ đến – kiểu như soi gương mà thấy bóng mình méo mó, không phải bị hiểu lầm, mà bị người ta cố ý dựng chuyện. Chữ nghĩa, rơi vào tay kẻ cố ý xuyên tạc, chẳng khác gì tấm gương vỡ. Mỗi mảnh gương phản chiếu một phần, nhưng người ta vẫn đem mảnh vỡ đó làm bằng chứng cho toàn bộ bức tranh. Một câu, một đoạn, một khẩu hiệu – xé khỏi bối cảnh trở nên lệch lạc – hóa thành thứ vũ khí đâm ngược lại chính ý nghĩa ban đầu. Câu chuyện của đạo diễn Trấn Thành gần đây là một minh họa. Anh chỉ viết đôi dòng thương tiếc chia buồn với sự ra đi của nghệ sĩ đàn bầu Phạm Đức Thành. Vậy thôi. Thế mà lập tức bị chụp mũ, bêu riếu, bị gọi “3 que,” “khát nước,” “Cali con.” Người ta diễn giải đủ kiểu, vẽ ra đủ cáo buộc: từ tội mê văn hóa Việt Nam Cộng Hòa đến tội phản quốc.
Sau thất bại trước đối thủ đảng Dân Chủ Joe Biden trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020, nội các “gia đình trị” của Donald Trump gần như biến mất khỏi chính trường. Các đồng minh không thể có cùng tiếng nói với Trump, nhất là sau vụ bạo loạn Quốc Hội Jan 06. Duy nhất một người vẫn một lòng trung thành không bỏ rơi Trump, đó chính là Stephen Miller. Nhiệm kỳ hai của Trump, người được cho là có quyền lực hơn trong vòng tròn thân cận của Trump, hơn cả JD Vance, chẳng ai khác hơn chính là Stephen Miller. Để tạo ra những ảnh hưởng chính trong chính quyền Trump hôm nay, Miller đã có một đường dài chuẩn bị, khôn ngoan và nhẫn nại.
Đầu tháng 8 năm 2025, Tổng thống Donald Trump đã ký một mệnh lệnh đặc biệt, chỉ đạo các cơ quan hữu trách lập kế hoạch đưa quân đội Hoa Kỳ đi trấn áp các tổ chức tội phạm ở Mỹ Latinh. Khoảng hai tuần sau, mệnh lệnh đã thành hiện thực. Ba khu trục hạm có gắn phi đạn viễn khiển (guided-missile destroyers) của Hoa Kỳ đã được khai triển tới vùng biển Venezuela, đảm trách việc chặn giữ các chuyến hàng ma túy.
Một góc khuôn viên của Đồi Capitol sáng Thứ Tư là những câu chuyện tưởng đã bị chôn vùi, nay được kể ra trong sự run rẩy, xúc động và cả nước mắt. Trước hàng chục ống kính truyền thông chiếu trực tiếp trên toàn quốc, khoảng mười người phụ nữ lần lượt kể ra câu chuyện của chính mình – nạn nhân của Jeffrey Epstein, tỷ phú tội phạm tình dục và buôn bán mại dâm trẻ vị thành niên. Ngày đó, những phụ nữ này chỉ vừa 16, 18 tuổi, nhỏ nhất là Marina Lacerda, 14 tuổi.
Ở đời, chẳng có ngai vàng nào là miễn phí. Muốn hỏi cưới công chúa thì phải có sính lễ. Làm gì có chuyện đi tay không mà cuỗm được gái đẹp — trừ trường hợp dùng quyền lực bẩn thỉu cưỡng hiếp gái tơ (nghe quen quen). Muốn làm đàng anh đàng chị không thể vừa keo kiệt vừa đòi được người ta kính nể. Quy luật xưa nay không đổi ăn khế thì phải trả vàng. Ngai vàng toàn cầu cũng vậy -- không chỉ làm bằng vàng, mà còn bằng chi phí, lời hứa, và trên hết, là sự tín nhiệm.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.