Hôm nay,  

Tiêu Thụ Là Dân Quyền

06/05/201000:00:00(Xem: 8223)

Tiêu Thụ Là Dân Quyền

Việt Long & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA

...quyền tiêu thụ gia tăng cũng cho người dân có tiếng nói trong các quyết định kinh tế...

Một mức tiêu thụ quân bình với đầu tư và xuất nhập khẩu có thể là yếu tố ổn định cho sự tăng trưởng bền vững. Tiêu thụ còn gia tăng được quyền hạn của người dân trong mọi sinh hoạt của một quốc gia. Diễn đàn Kinh tế đài RFA tìm hiểu khía cạnh này qua phần trao đổi với nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa, do Việt Long thực hiện sau đây.
Vai trò của tiêu thụ
Việt Long: Trong chương trình chuyên đề vào tuần trước của chúng ta, khi đề cập tới nguy cơ của một trận chiến mậu dịch giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, ông có nêu lên một chi tiết đáng chú ý. Đó là vai trò của tiêu thụ trong sinh hoạt kinh tế. Ông còn nói rằng tiêu thụ gia tăng thì cũng có thể nâng cao quyền hạn của người dân. Vì vậy, kỳ này chúng tôi xin đề nghị ông triển khai khía cạnh ấy cho thính giả cùng rõ. Như thường lệ, xin ông bắt đầu trình bày về bối cảnh của vấn đề.
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Trước hết, từ nhân vật có thể là thủy tổ của môn kinh tế tự do là Adam Smith và cũng từ Karl Marx, ta đều thấy ra sự gắn bó giữa kinh tế và chính trị và "kinh tế chính trị học" là một bộ môn thống nhất. Điều ấy có nghĩa là chính sách kinh tế cho quốc gia cũng là những quyết định chính trị cho quốc dân.
- Thứ hai, có nhiều cách đo đếm khả năng sản xuất của một quốc gia qua khái niệm gọi là Tổng sản lượng gộp nội địa hay Tổng sản phẩm nội địa, gọi tắt là GDP. Cách đo lường phổ biến là tính theo kết cấu của các khu vực sản xuất, như công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Một phương pháp khác là tính theo mức chi tiêu. Theo phương pháp chi tiêu này, sản lượng mà một quốc gia sản xuất thêm trong một khoảng thời gian nhất định nào đó cũng bằng với tổng số chi tiêu các loại hàng hóa và dịch vụ cuối cùng.
- Theo công thức chuyên môn thì đấy là tổng số chi tiêu của tư nhân và chính phủ cộng với số đầu tư và cộng với sai số của cán cân thương mại, tức là xuất khẩu trừ đi nhập khẩu. Nói cho dễ hiểu dễ nhớ thì tổng sản lượng là tiêu thụ cộng đầu tư và cộng xuất khẩu. Ba thành tố chi tiêu, đầu tư và xuất cảng này là một cách nhìn khác về tổng sản lượng mà quốc gia sản xuất thêm. Cách nhìn này gián tiếp cho thấy khả năng hưởng dụng của người dân trong nền kinh tế hàng hóa và khả năng đó cũng là một quyết định chính trị của lãnh đạo.
Việt Long: Chúng tôi xin được tóm lược lại là sản lượng kinh tế một nước hay một địa phương trong một thời khoảng nào đó cũng bằng với tổng số chi tiêu cộng với đầu tư cộng với xuất khẩu và trừ đi nhập khẩu. Xin ông giải thích vì sao ông tin rằng con số ấy có bao hàm một yếu tố chính trị bên trong.
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi xin lấy một thí dụ có lẽ ai cũng nhớ là một năm Hoa Kỳ sản xuất ra chừng 14.200 tỷ đô la thì phần tiêu thụ của tư nhân chiếm tới 10.000 tỷ, tức là 70%. Đấy là một sắc thái văn hoá và chính trị của xứ này và cũng giải thích vì sao Mỹ nhập khẩu rất mạnh để phục vụ thị trường nội địa và trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất thế giới cho các nước khác.
- Tình hình đó không thể kéo dài và nước Mỹ đang phải điều chỉnh thói quen tiêu thụ và muốn đẩy mạnh xuất khẩu để quân bình lại cơ cấu kinh tế, là chuyện chúng ta đã đề cập trong kỳ trước.
- Ở bên kia Thái bình dương có các quốc gia Đông Á đã dốc sức sản xuất để xuất cảng và dùng xuất khẩu như một đầu máy cho tăng trưởng. Khi các thị trường nhập khẩu lớn của thế giới là các nước công nghiệp hoá, như Hoa Kỳ, Nhật Bản và Âu Châu, đều co cụm sau trận tổng suy trầm vừa rồi, xứ nào mà càng lệ thuộc vào xuất khẩu sẽ càng khốn đốn. Khi ấy, ta mới chú ý đến hai đầu máy tăng trưởng còn lại, là đầu tư và tiêu thụ.
- Xứ nào mà có cơ cấu sản xuất quân bình giữa ba thành tố là tiêu thụ, đầu tư và xuất khẩu thì càng dễ vượt qua sóng gió trong ổn định. Trung Quốc là nơi mà tiêu thụ lại chiếm tỷ lệ quá nhỏ và khi xuất khẩu sút giảm đến nỗi tuột xuống số âm thì chính quyền phải gia tăng đầu tư, có lúc lên tới 90% đà tăng trưởng của tổng sản lượng, và đấy là vấn đề cực kỳ nguy kịch mà họ khó kịp điều chỉnh. Từ chuyện đó, chúng ta mới chú ý đến yếu tố tiêu thụ và đây là trọng tâm của chương trình kỳ này của chúng ta.
Việt Long: Bây giờ, sau phần bối cảnh ấy, chúng ta mới đi vào nội dung của vấn đề, là vai trò của tiêu thụ.
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Trước khi có Trung Quốc ra khỏi thời hoang tưởng của Mao Trạch Đông thì các nước Đông Á đều thấy chung một số đặc tính. Đất chật, người đông, kinh tế lại nặng về canh nông hơn là công nghiệp. Vì vậy, họ chọn chiến lược xuất khẩu để tạo ra việc làm, để gia tăng thu nhập và kiến thức về tổ chức sản xuất.
- Họ vận dụng sức tiết kiệm rất cao của người dân để lấy vốn đầu tư vào hạ tầng cơ sở và vào bộ máy công nghiệp hoá. Chiến lược ấy nghĩa là người dân thắt lưng buộc bụng, được tiêu thụ rất ít và thực tế góp phần cho hiện tượng mà ta gọi là "Sự kỳ diệu Đông Á".
- Sau khi tiến vào giai đoạn cải cách thì Trung Quốc và Việt Nam cũng học theo chiến lược của Đông Á và cũng đạt mức tăng trưởng rất cao như các nước Đông Á kia, cụ thể nhất là như Đài Loan hay Đại Hàn. Nhưng, hậu quả của chiến lược đó cũng khiến tiêu thụ nội địa bị kềm hãm, người dân lao động cực nhọc với lương bổng thấp để có sức cạnh tranh về xuất cảng. Và giờ đây, khi thế giới đang đi vào chu kỳ tái quân bình toàn cầu thì các nước này mới thấy rằng thị trường nội địa quá nhỏ không thể tạo ra sức kéo và cứ lệ thuộc vào thị trường xuất khẩu thì sản lượng sẽ suy giảm và bất công xã hội càng dễ gây ra động loạn.
Thị trường nội địa
Việt Long: Nghĩa là ông đang trở về một khuyến cáo đã được nói tới nhiều lần trên diễn đàn này, là phải gia tăng sức mua của thị trường nội địa"


Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa đúng như vậy. Singapore là một đảo quốc có dân số chỉ năm triệu nên phải tự chuyển hóa thành một trung tâm chế biến và tài chính cho luồng giao dịch quốc tề và tổng sản lượng lệ thuộc tới 188% vào xuất khẩu. Một quốc gia có gần 90 triệu dân như Việt Nam thì có thị trường nội địa đủ lớn cho yêu cầu sản xuất, nếu xứ này biết xây dựng hạ tầng cơ sở cho sự chuyển vận nội địa và cho dân chúng có cơ hội tiêu thủ thành quả tăng trưởng một cách đồng đều và công bằng hơn. Điều ấy là một sự cần thiết về kinh tế lẫn xã hội và đạo lý. Tôi xin lấy thí dụ của hai quốc gia đi trước để làm gương, đầu tiên là Đài Loan, sau đó là Nam Hàn.
Việt Long: Trước khi nói về trường hợp Đài Loan thì nói về Việt Nam, bất kỳ chính quyền nào cũng phải có cách gia tăng thu nhập của người dân thì mới gia tăng được sức tiêu thụ, phải không"
Nguyễn Xuân Nghĩa: Đúng. Và quyềt định gia tăng sức tiêu thụ đó nắm trong tay Nhà nước và liên quan đến thí dụ như hối suất của đồng bạc hay là chế độ thuế khoá, chế độ lương bổng của dân. 
Việt Long: Mời ông bắt đầu sang trường hợp Đài Loan.
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Mặc dù luôn luôn bị Trung Quốc đe dọa thôn tính và trong khi Việt Nam bị tai họa chiến tranh rồi cách mạng, trong các năm 1960-1980, Đài Loan đã nghiến răng thắt lưng buộc bụng để xuất khẩu và hết lệ thuộc vào viện trợ Mỹ. Trong 25 năm liền, xứ này đầu tư và xuất khẩu rất mạnh và kềm hãm tiêu thụ. Nhưng vì là đảo quốc nhỏ chỉ có hai chục triệu dân, họ không đi vào công nghiệp nặng mà từ sau thập niên 1980 đã đầu tư vào khu vực chế biến cao cấp, với sức đầu tư dù sao không thể quá 30% tổng sản lượng.
- Phần còn lại là sức đóng góp của tiêu thụ tư nhân, từ dưới 50% Tổng sản lượng nay đã là 60%. Cơ cấu kinh tế Đài Loan trở thảnh quân bình hơn và đồng thời xã hội cũng dân chủ hơn vì tư nhân giữ vị trí quan trọng hơn trong sinh hoạt kinh tế. Chúng ta nên chú ý tới hai biến chuyển song hành, là tiến trình dân chủ hóa và khả năng tiêu thụ của tư nhân, đều khởi sự từ đầu thập niên 1980 của thế kỷ trước.
Việt Long: Ông vừa nêu ra một hiện tượng rất đáng chú ý. Trường hợp Nam Hàn cũng như vậy sao"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Nam Hàn cũng thường xuyên bị đe dọa chiến tranh từ phía Bắc Hàn Cộng sản, đất đai lại khô cằn và khó trồng trọt hơn Việt Nam gấp bội, cho nên sau Đài Loan chừng một chục năm họ cũng học theo chiến lược Đông Á. Khi chiến tranh Việt Nam lên tới cao độ vào đầu thập niên 1970, Nam Hàn vọt tiến lên nhờ xuất khẩu và đầu tư rất mạnh nhờ tiết kiệm rất cao. Nghĩa là cũng thắt lưng buộc bụng để tìm lực đẩy.
- Hai chục năm sau, họ trở thành một xứ "tân hưng", có nền công nghiệp tiên tiến nhờ các tập đoàn "chaebol" và sự yểm trợ của chính quyền. Trong giai đoạn ấy, tiêu thụ bị kềm hãm và chỉ đóng góp dưới 50% vào tổng sản lượng.
- Nhưng lãnh đạo của họ sáng suốt nhìn ra yêu cầu quân bình trong xã hội nên điều chỉnh tỷ giá đồng bạc cho cao hơn để nâng sức mua của người dân và đồng thời cải tổ cơ chế chính trị cho dân chủ hơn. Thời điểm bản lề của họ là Thế vận hội Hán Thành năm 1988 là khi Nam Hàn trở thành một nước dân chủ tiên tiến, và tỷ lệ tiêu thụ bắt đầu vượt qua ngưỡng 50% tổng sản lượng.
- Nhờ vậy mà khi khủng hoảng kinh tế bùng nổ năm 1997-1998, dù xuất khẩu có sa sút xứ này vẫn vượt qua khó khăn với chính sách kích thích tiêu thụ nội địa. Ngày nay, Nam Hàn có mức tiêu thụ bằng 55% tổng sản lượng, xuất khẩu bằng 53% và đầu tư bằng 30%.
Việt Long: Như vậy, chúng ta có thấy ra một điều có thể gọi là quy luật, khi mức tiêu thụ nội địa gia tăng thì cũng là lúc mà người dân, tức là nhà tiêu thụ, có thêm nhiều quyền hạn, trước tiên là quyền hạn kinh tế, sau đó cũng là quyền hạn chính trị. Có phải như vậy không"
Nguyễn Xuân Nghĩa: Quyền hạn kinh tế là quyền được tự do chọn lựa khi mua bán với giá cả quy định tự do và minh bạch. Khi tiến vào lao động sản xuất mà công lao không được đền bù xứng đáng - thí dụ như vì đồng lương bị bóp nghẹt, hối suất hay tỷ giá bị quy định quá thấp, hay giá cả bị kiểm soát - thì người dân không có tự do và thực tế là bị bóc lột. Trong hoàn cảnh đó, nếu thiểu số có chức có quyền mà thao túng thị trường để trục lợi thì họ dễ thành tỷ phú hưởng thụ trên đầu trên cổ đa số người dân ở dưới. Đó là tình trạng của Trung Quốc và Việt Nam ngày nay, một tình trạng bất công vì tự do có hạn chế.
- Ngược lại, khi dân được hưởng thành quả lao động và có quyền tiêu thụ, thị trường nội địa sẽ giữ vai trò quân bình lại sự thăng giáng của thị trường quốc tế như ta đã thấy trong hai năm qua. Nhưng song song, quyền tiêu thụ gia tăng cũng cho người dân có tiếng nói trong các quyết định kinh tế và đấy là một điều kiện cụ thể cho phép xứ sở dân chủ hoá trong sự ổn định. Bài toán về cải cách rất khắt khe ngày nay của Trung Quốc, với sức tiêu thụ bị kềm hãm trong khi xuất khẩu sa sút, là một bài học mà Việt Nam nên thấy trước và kịp thời cải cách cho đông đảo người dân được hưởng thành quả của tăng trưởng mà chính họ, chứ không phải nhà nước, mới là động lực.
Việt Long: Ông có vẻ hơi lạc quan khi nói đến những điều Nhà nước cần làm để gia tăng quyền lực kinh tế cho người dân. Nhưng trong những quốc gia mà chính quyền không muốn cho người dân có thêm quyền hạn kinh tế để tăng quyền hạn chính trị, thì làm sao họ có thể thực hiện những điều đó"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Trong trường hợp đó thì quốc gia đó sẽ bị khủng hoảng. Kinh tế sẽ bị khủng hoảng, và nếu nền kinh tế lại nằm dưới một chế độ chính trị hà khắc, thì khủng hoảng kinh tế sẽ dẫn đến khủng hoảng chính trị. Đó là điều chúng ta không muốn Việt Nam sẽ gặp trong nay mai.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.