Hôm nay,  

Đứa Con

15/09/201000:00:00(Xem: 7193)

Đứa Con                                                       

Mây-cao-Nguyên phóng tác
Ánh nắng của một sáng mùa xuân chiếu xuyên qua cửa sổ. Vài tiếng chim hót líu lo trên cành Anh Đào báo hiệu một ngày đẹp trời sau những tháng mùa đông băng giá. Trong góc của chiếc trường kỷ một con búp bê đôi mắt làm bằng hạt cườm màu đen, sáng bóng, đang nhìn chầm chập về phía trước.
Những chậu hoa cảnh treo lủng lẳng trên thành cửa sổ đang độ nở hoa, những tấm màn cửa làm bằng vải mỏng mịn màng, trong suốt đang phất phơ trong gió. Sách vở bày la liệt trên bàn, nhiều cuốn còn trên những kệ sách chung quanh phòng. Sách đủ loại với những đề tài khác nhau. Về đời sống, sự chết và về tình yêu bằng thơ và bằng văn xuôi. Một tấm vải lụa đang thêu dở với những đường nét sắc sảo, mềm mại như da dẻ của một đứa bé.
Chiếc dương cầm đang mở nắp. Nhạc phẩm được chọn lọc, vừa cổ điển vừa hiện đại mở sẵn nằm tựa trên giá nhạc: của Chopin, Scriabin…
Đứa bé từ ngoài cửa bước vào, băng qua phòng khách, ẵm con búp-bê trên tay và nói lảm nhảm; lục lọi trong đống sách vở trên bàn để tìm cuốn sách hình, chọt ngón tay trên chiếc dương cầm. Đứa bé trông có vẻ tươi mát, khỏe mạnh, với đôi cánh tay và đôi chân trần trụi, rám nắng bởi gió và ánh nắng mặt trời. Đôi mắt trong sáng, đen nhánh, ngây thơ của đứa bé trông thật dễ thương làm sao.
Những người lớn cũng có riêng đời sống của họ. Họ biết được thế đứng của mỗi người. Người đàn bà hết đi ra rồi lại đi vào. Bà tưới cây, dọn dẹp, phủi bụi, thỉnh thoảng bà cầm quyển sách trên tay ngồi đọc, hoặc nhặt tấm vải lụa thêu một vài đường, không bao giờ thêu nhiều. Vì vậy, những tấm vải thêu không bao giờ được hoàn tất. Có những cuốn sách bà chỉ liếc nhanh, chưa từng đọc hết. Chúng nằm im lìm, bà gấp lại và vứt chúng sang một bên.
Bà cảm thấy bồn chồn. Vừa ngồi xuống lại phải đứng dậy để tìm kiếm một việc gì đó để làm hết chỗ này đến chỗ khác; chùi những khung cửa sổ, phủi bụi những mặt bàn, ghế đã bóng lưỡng, bà tự tạo cho mình bận rộn với những công việc không mấy cần thiết. Đôi khi bà hát nho nhỏ. Rồi đưa tay lau những hạt lệ bỗng nhiên đọng trên khóe mắt chảy dài xuống đôi má. Dáng bà thon nhỏ và nước da ngâm ngâm.
Từ dưới bếp bước lên phòng khách với đôi tay còn ướt, khuôn mặt hiện lên nét nôn nóng chờ đợi. Bà chùi vội đôi tay ướt vào chiếc khăn choàng làm bếp và đi nhanh đến chiếc dương cầm. Màn bi kịch theo sau. Những tiết điệu du dương trầm bổng quyện lấy nhau, lúc như van lơn, mời mọc, lúc như sung sướng hạnh phúc vui tươi. Bỗng nhiên, nhạc trở nên cuồng loạn, bà buông đôi tay trên các phím đàn để mặc những âm thanh réo rắc vang động: bà cúi gập người về phía trước, đầu chạm vào các phím đàn, chiếc dương cầm lại vang lên. Những dòng lệ lăn dài giữa những ngón tay thon.
Nhưng bà cũng có thể chơi một khúc nhạc buồn một cách êm dịu; đôi má lấm tấm mồ hôi. Bà đứng dậy và xoay một vòng giữa sàn nhà. Bà nhảy từ mé phòng này đến mé phòng khác, những bước chân êm dịu, nhẹ nhàng như con thú trong chuồng. Luôn luôn đến giờ chót chiếc khăn tay được xử dụng.
Bà nghe đứa con bước vào, lau mặt thật nhanh và thay đổi nét mặt như một nữ tài tử già dặn kinh nghiệm.. Đứa con chạy xổ nhanh, sa đầu vào đôi vòng tay của mẹ nó, khóc hay cười như những đứa trẻ thường làm. Hoặc nó sẽ mang đến cho mẹ nó một bó hoa được kết với đủ loại hoa dại, một vài cành với cuống ngắn ngủn, cành khác với cuống dài thườn thượt không vừa với những lọ cắm hoa, tuy nhiên bà phải đón nhận. Nhìn xem, hoa con hái ở đâu mà đẹp quá vậy"
Lần khác đứa con chạy vào đưa cho bà xem đôi nắm tay dơ bẩn hoặc cái đầu gối dính đầy cát và đang chảy máu. Nó xu"y’t xoa, đau đớn gọi mẹ. Bà phải an ủi, chăm sóc, dỗ dành một cách khó khăn. Chẳng bao lâu đứa bé cười đùa trở lại; nó ngồi trên chiếc trường kỷ và ôm con búp bê vào lòng, với miếng băng keo dán trên vết thương, đang ngồi mút kẹo và xem sách hình. Bà mẹ nói chuyện và cười giỡn với nó, cố làm cho nó quên đau, bà bồng và hôn nó. Hình như đó là một sự tự trách, một sự thông cảm thể hiện ngay trong cử chỉ của bà. Bà hát những đoản khúc trong các nhạc phẩm, kể chuyện cổ tích.
“Ngày xưa, có một người đàn đàn bà nhỏ xíu, nhỏ bằng ngón tay út, bà sống trong một căn nhà cũng nhỏ xíu như hộp diêm…”
Đứa con lắng nghe với đôi mắt chăm chú mở lớn một cách thích thú. Nhưng bỗng nhiên người mẹ mất sợi chỉ may và không tìm thấy. Bà vội vã đặt đứa bé xuống: “Kìa, bây giờ, con chạy ra ngoài chơi trở lại đi. Mẹ con mình không thể ngồi đây suốt cả ngày được”.
Và đứa bé hớn hở chạy đi. Đó là điều luôn luôn xảy ra. Đã xảy ra rất nhiều lần.
Gần tối bà nghe tiếng mở cổng và âm thanh của những bước chân của người đàn ông xào xạc trên con đường lát sỏi. Khuôn mặt bồn chồn của bà lập tức nghiêm trang và căng thẳng.
Bà cử động một cách hối hả chạy đi đóng nắp chiếc dương cầm, dẹp mấy bản nhạc, che dấu những vết tích. Trong khoảnh khắc bà đứng cầm tấm vải thêu trên tay, lưỡng lự, rồi để nó nằm ngay ngắn trên bàn.
Rồi bà bước ra khỏi phòng. Người chồng bước vào.
Ông là một người đàn ông lịch sự, phong nhã, tự tin, ăn mặc chững chạc vừa mới thoáng nhìn. Ông ta cũng là một người vui vẻ và dễ kết bạn, và người chồng muốn có một mái ấm gia đình hạnh phúc, nhưng ngược lại. Ông ta nhìn chung quanh căn phòng với vẻ hồ nghi, bậm môi, và thì thầm một mình.
Đứa bé chạy vào với ông. Nó đang đứng tựa vào chân của ông, khoe những thành tích suốt một ngày của nó. Có thể đó là một con sóc nhỏ xinh xắn. Một vài con bướm đủ màu sắc rực rỡ…..
-À, chúng đẹp quá phải không con"
Người cha ẵm đứa con để nó ngồi trên lòng, nhưng tư tưởng của ông để đâu đâu.
Đứa con đòi hỏi sự chú y’ của ông ta. Nó nhặt cuốn sách hình lên và chỉ vào đó. Người cha nói một cách máy móc: “À, con mèo đẹp quá há. Con chim hoàng anh cũng đẹp nữa”.
Cặp mắt của ông nhìn ra hướng cửa chính, ông lắng nghe. Và đột nhiên ông đặt đứa bé xuống và nhấc điện thoại; ông nhanh nhẹn quay số và đang nói chuyện nửa chừng thì người vợ bước vào.
Ông không nghe thấy bà vợ đến gần, ông vẫn nói và cười một cách thân mật, như một người hoàn toàn bận rộn với bạn bè và những chuyện thích thú của mình. Ngay cả khi ông gát máy điện thoại ông cũng không có vẻ gì để y’ đến bà và vẫn tiếp tục tìm số điện thoại trong cuốn niên giám.
-“Anh mới về"” Bà hỏi nhỏ nhẹ và ngồi xuống.
-“Sao…"”.
Giọng nói của bà thiếu nhẫn nại nhưng hoàn toàn có một sự trông đợi thật trẻ con: bà đang bất mãn. Ông ta nhún vai: “Sao" –À, anh mới về-không có gì đặc biệt cả”.
Bà ta ngồi đó như đang mong ngóng được nghe một vài điều hơn là những sự việc bình thường. Bà luôn luôn chờ đợi chồng của bà nói một vài điều mà ông ta chưa bao giờ nói với bà; suốt cuộc đời làm vợ bà đã chờ đợi. Bà cũng không biết chắc một cách chính xác là bà chờ đợi cái gì, bà chỉ biết đêm nay lại thêm một điều bất mãn khác.
-“Không…” Ông đưa tay làm điệu bộ một cách mơ hồ.


Ngày của ông cũng giống như mọi ngày khác. Không có gì xảy ra cả. Năm ngày làm việc tại văn phòng với những giấy tờ, máy móc. Sau giờ làm ông lái xe thẳng về nhà không la cà đâu hết. Tối về cơm nước xong, xem TV, sách báo hoặc gọi một vài người bạn để chuyện trò tâm sự. Cuộc đời của ông thật là bình dị. Nhưng cái vai trò của ông không giúp giải quyết được vấn đề. Bà vợ vẫn còn ngồi đó, nét bất mãn đang ầm ỉ, một sự bất mãn vu vơ làm cho không khí trở nên ngột ngạt. Bà muốn gì đây"
-“Còn em, sao vậy" Có khỏe trong người không"” ông hỏi một cách nghiêm nghị.
-“Có sao đâu, cám ơn anh” Bà trả lời một cách lạnh lùng.
Để xóa tan bầu không khí ngột ngạt,m ông nhặt tấm vải lụa đang thêu dở cầm trên tay một cách vụng về và nói:
-“Đàn bà của mấy người sao lại có đủ thì giờ và kiên nhẫn để làm những chuyện tào lao như thế này”.
-“Thì giờ! Chúa ơi! Nó nằm đó cả mấy tuần nay rồi: Em ước sao em có đủ thì giờ….”
Bà dừng lại ở đó. Ông nhìn quanh một vòng căn phòng, dừng mắt tại chiếc dương cầm. Chiếc dương cầm đóng nắp, không thấy một bản nhạc nào cả. Nhà cửa thì sạch sẽ, ngăn nắp, bàn ghế thứ tự, bóng láng không có gì để có thể chê trách. Ông muốn bươi móc thêm nhiều điều nữa để có cớ đay nghiến bà, nhưng cuối cùng rồi ông chịu thua.
Ông trở lại tấm vải thêu:
-“Lâu nay anh đâu có thấy nó bao giờ đâu”.
-“Có một hoặc hai điều mà anh không thấy”, bà nói trong khi bà đứng dậy:
-“Thôi, đến giờ ăn rồi”.
Cùng lúc đó bà bật lên cười thật lớn đầy vẻ miệt thị.
-“Hãy nghĩ đến….”, ông dự định nói một điều gì đó, mắt hướng nhìn về đứa con đang ngơ ngác nhìn cha mẹ nó.
-“Em không nghĩ gì khác cả. Nếu em đã nghĩ….”.
-“Nếu em đã nghĩ....” Ông ta nhìn bà một cách khiêu khích.
-“Thôi đừng nói nữa”.
Bà đưa tay dắt đứa bé rời khỏi phòng: “Đi con, hai mẹ con mình đi rửa tay, rồi ăn cơm”.
Bữa cơm chiều hôm nay bày biện một cách khéo léo và trông có vẻ thịnh soạn. Cá mòi chiên, khoai Tây hầm kiểu mới, xà-lách, nửa chai bia và bánh ngọt. Chắc là ngon lắm.
Và đối với ông đang đói bụng chắc phải ngon rồi. Ông nghĩ phải có một cuộc hưu chiến.
-“Đồ ăn ngon quá”, ông nói nịnh vợ.
-“Ngon sao"”, bà hỏi vặn một cách lạnh lùng.
-“Em sung sướng được nghe anh khen”.
Sau đó thì họ nói về đứa con. Một cách máy móc họ nói những điều như những người lớn luôn luôn hỏi những đứa trẻ nít.
-“Suốt ngày con làm những gì"”.
-“Cầm tay phải, con chó!”.
-“Con có đi chơi với mấy đứa trẻ hàng xóm không"”.
-“Con hư quá, vấy thức ăn vào áo quần của mẹ hết rồi! Con không được cầm cái muỗng như vậy- Cầm như thế này, này”.
-“Mấy con gà con nhà kế bên, chúng như thế nào rồi"”.
-“Đừng có ăn khoai tây không. Con phải ăn cho hết cá. Như vậy phải ngoan không”.
Đứa con hết trả lời bên phải rồi lại trả lời bên trái, hài lòng được cha mẹ chú y’ chăm sóc cho mình quá nhiều; nó không hiểu được nó đang ở trong vùng chiến địa nguy hiểm.
Con mèo ăn một con gà con. Con khác được mẹ nó cứu. Nhưng nó bị gãy chân và chắc có lẽ cũng phải chết thôi; họ đã giết con gà con nhỏ xíu dễ thương đó và đem chôn, trên mộ nó có cây thánh giá và một cây thược dược. Và cá thì không được ngon lắm nếu không cảm thấy đói bụng.
Đứa bé giẫy nẫy không chịu ăn thêm cá. Cha mẹ nó lại có cớ để đôi co nhau qua trung gian của đứa bé.
-“Không ăn nữa thì để đó, con chó của ba”.
-“Ăn hết đi con, ngoan mẹ thương”.
-“Có lẽ nhiều quá con ăn không hết, phải không"”.
-“Đừng ngang bướng, con. Giỏi, ăn hết mẹ cho con ăn bánh ngọt”.
Đứa con trả lời nó muốn ăn bánh ngọt, không muốn ăn cá. Nó ngả người trên ghế và vứt mạnh cái muỗng xuống dĩa. Nó không còn ngồi ngay ngắn, tề chỉnh như trước và mẹ nó phải bồng nó xuống cho nó chạy đi chơi mà không cho ăn bánh ngọt.
Nhưng người cha tự đi lấy một miếng bánh ngọt để trước mặt đứa con: “Mình đừng nói một lời nào nữa. Thời tiết quá nóng nực mà mình đòi hỏi quá nhiều. Để yên cho nó”.
Ít nhứt, ông ta đã cư xử với tư cách là chủ nhân của căn nhà này và chứng tỏ quyền làm chồng. Điều này làm ông mãn nguyện.
Đứa con bắt đầu ăn bánh ngọt. Nhưng nó nhìn lấm lét cha mẹ một cách bối rối, thẹn thùng. Một sự y’ thức mập mờ chợt đến trong trí nó chứng tỏ cho nó biết cuộc đời không phải bình dị và êm trôi như nó tưởng.
Cha mẹ nó không còn nói gì nữa.
Màn đêm chợt đến. Đêm về với những hàng cây in rõ rệt, nằm im lìm dưới bầu trời trong xanh và chúng càng rõ nét khi những vì sao xuất hiện. Mùi hương của rơm rạ, hoa xa-trục-thảo và hoa hồng phảng phất đâu đây. Tiếng con dế mèn rả rích bên thềm. Quang cảnh đang quạnh hiu bỗng nhiên vang lên những tấu khúc rộn rã của muôn loại côn trùng, động vật, chim chóc. Tiếng cú kêu đêm đâu đây nghe buồn não nuột.
Trong phòng nơi đặt chiếc dương cầm ngọn đèn được bật sáng. Những con mòng bay va vào mặt gương cửa sổ đang đóng. Xuyên qua một vài cửa sổ hé mở một vài con thấy ánh sáng bay vào nhưng không tìm được lối ra; chúng bay lượn vòng vòng chung quanh chụp đèn điện. Những con thiêu thân thấy ánh sáng tưởng hạnh phúc thiên đường đang va đầu vào cõi chết.
Người chồng đang ngồi đây.
Ông ta bỏ tờ báo sang một bên và đang ngồi nhìn những con thiêu thân. Có giúp chúng cũng vô dụng thôi. Hãy để chúng trì chí cho đến khi tử thần thương xót đến đón chúng đi. Nhưng ông biết chúng cảm thấy như thế nào. Chính ông cũng đã bay vào trong thứ ánh sáng đó một lần và nay đang nhìn hoàn cảnh của những con thiêu thân đang làm mồi cho ánh sáng, ông cảm thấy một nỗi buồn man mác len nhẹ vào hồn. Người ta nghĩ họ đã tìm thấy được một vòng tay ôm ấp áp, một nơi chốn an bình, thú vị để cho tâm hồn ngự trị. Nhưng thay vì người ta đã tìm thấy một sự bất ổn triền miên, một tính khí bất thường, một sự dằn vặt khó hiểu. Âm nhạc ư" Không có lấy một âm điệu. Chiếc dương cầm đang nằm im lìm, mang dấu hiệu miệt thị và một sự tố cáo chống lại ông. Nếu không có sợi dây thiêng liêng đang ràng buộc hai người, đó là đứa con, thì chắc chắn ông đã bỏ bà và ra đi thật xa.
Ông có thể nghe rõ từng bước chân của bà ngoài vườn sau. Ngoài kia bà đang đi đếm nỗi buồn.
Bà cứ đi và đi, viên sỏi mừng đang reo dưới gót chân vang. Thỉnh thoảng bà dừng lại và trầm ngâm suy nghĩ, có rất nhiều tâm sự dằn vặt, ngỗn ngang không nói được mà chồng bà không thể nào đoán cho ra, ông đang ngồi nhấp nhổm trên ghế.
Bà cũng nhìn thấy những con thiêu thân, bà cũng thấy cái hấp dẫn của ánh sáng. Chính bà cũng đã từng cảm thấy đã bay vào những điều mà bà tin tưởng rằng đó là một cuộc phiêu lưu miên viễn, ngây ngất không chấm dứt. Bà đã sa vào vùng ánh sáng với những y’ nghĩa mới mẽ của một điều duy nhất, trước sau như một, là cố đem lại hạnh phúc và sung sướng cho chồng, cha của đứa con trai của bà, người đàn ông xa lạ đang ngồi im lìm, trơ trơ như đá tìm lấy thú vui cho mình mà không quan tâm đến nỗi giận hờn đang nổi loạn trong lòng bà.
Đứa con đang nằm ngủ trên chiếc giường nhỏ. Nó hất tung chiếc khăn trải giường vì nực nội và nằm duỗi tay chưn bụ bẫm, rám nắng, khuôn mặt dễ thương như một đóa hoa tươi. Đứa con đang mơ màng trong giấc điệp, đã quên không còn thấy vết đau nhức vừa mới bị thương. Thật là vô tư, nó là kết tinh của máu, mủ, da thịt, trí óc của hai con người mâu thuẫn nhau đã cấu tạo nên nó. Ngày mai khi đến tuổi trưởng thành, nó sẽ tiếp nối, đuổi theo cái vũng ánh sáng hạnh phúc mơ hồ của nhân loại mà nỗi buồn luôn luôn chờ đón nó trước ngưỡng cửa thiên đường.
MÂY-CAO-NGUYÊN
(Canada,July 1st 2010)  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.