Hôm nay,  

Chậm Còn Hơn Không

17/11/200900:00:00(Xem: 5451)

Chậm còn hơn không

Trần Bình Nam
Quan hệ giữa Việt Nam và Trung quốc liên quan đến vùng Biển Đông, một vùng biển giới hạn phiá bắc bởi đảo Hải Nam, phía đông bởi Phi Luật Tân, phía tây bởi Việt Nam, phiá Nam bởi Singapore, Nam Dương, Mã Lai Á và Brunei trong đó có hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa là một vấn đề vẫn còn nhiều câu hỏi. Nhiều câu hỏi được dành cho Việt Nam.
Từ năm 1958 khi Trung quốc chính thức công bố bản đồ vùng Biển Đông (TBN: Trung quốc gọi là biển Nam Trung hoa và thế giới quen hiểu theo tiếng Anh là South China Sea) trong đó Trung quốc khoanh một khoảng lớn có hình như một cái lưỡi bò (TBN: từ đây sẽ gọi là vùng biển hình lưỡi bò) bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và nói thuộc chủ quyền của họ thì Việt Nam đã phản ứng một cách khó hiểu. Mãi đến ngày 10/11/2009 vừa qua chính quyền đảng cộng sản Việt Nam mới có thái độ tương đối rõ ràng và công khai.
Ngày 4/9/1958 Trung quốc ra thông cáo tuyên bố lãnh hải Trung quốc 12 hải lý thay vì 3 hải lý như vẫn được áp dụng (TBN: theo phong trào chung của nhiều nước trên thế giới), và đính kèm thông cáo là bản đồ vùng biển hình lưỡi bò như đã nói ở trên.
Lúc đó Việt Nam còn ở tình trạng chia đôi qua vĩ tuyến 17 bởi Hiệp định Geneva năm 1954. Tại miền Nam tổng thống Ngô Đình Diệm không đếm xỉa gì đến tuyên bố của Trung quốc vì Nam Việt Nam không có quan hệ ngoại giao với Trung quốc, mặt khác vì tính cách đòi chủ quyền một vùng biển của Trung quốc không có tính pháp lý.
Nhưng miền Bắc dưới quyền của chính phủ cộng sản do ông Hồ Chí Minh lãnh đạo đã đáp ứng công bố về chủ quyền lãnh hải của Trung quốc. Ngày 14/9/1958  thủ tướng Phạm Văn Đồng gởi công hàm công nhận và hứa tôn trọng tuyên bố lãnh hải mới của Trung quốc. Công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng không đá đông gì đến vùng biển hình lưỡi bò.
Điều này vẫn còn là một nghi vấn không biết ý của ông thủ tướng Phạm Văn Đồng như thế nào. Tuy thế dư luận cho rằng chính quyền miền Bắc qua công hàm 14/9/58 đã bán đứng Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung quốc. Và lẽ dĩ nhiên Trung quốc cũng “giả mù làm mưa” hiểu như vậy.
Tuy nhiên ông Nguyễn Mạnh Cầm nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, nhân buổi họp báo tại Hà Nội ngày 2 tháng 12 năm 1992 đã nói với Thông tấn xã Việt Nam và được phổ biến ngày 3 tháng 12 năm 1992 rằng: “Các nhà lãnh đạo của ta lúc trước xác nhận về Hoàng Sa và Trường Sa như vậy là do theo hiệp định Genève năm 1954 về vấn đề Đông Dương thì tất cả lãnh thổ từ vĩ tuyến thứ 17 trở vào Nam là thuộc chính quyền miền Nam, kể cả hai quần đảo này . (TBN: ý của ông Nguyễn Mạnh Cầm là có thuộc của chúng tôi mà bán hay không bán.)
Thêm vào đó, vào lúc ấy Việt Nam phải tập trung hết mọi lực lượng vào cuộc chiến chống Mỹ nên cần bạn bè khắp nơi. Tình hữu nghị Việt-Trung đang thắm thiết và hai nước hoàn toàn tin cậy lẫn nhau. Việt Nam xem Trung Quốc là một nguồn hỗ trợ to lớn và giá trị.
Trong tinh thần đấy thì do tình thế cấp bách, quan điểm của lãnh đạo ta là cần thiết vì nó phục vụ cho cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc.
Đặc biệt, việc này còn nhắm vào nhu cầu cấp thiết lúc đó là ngăn ngừa đế quốc Mỹ không sử dụng các quần đảo đó để tấn công chúng ta. Việc lãnh đạo ta tạm công nhận như thế với Trung Quốc không có can hệ gì đến chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cả.”
Như vậy về mặt thực tế cũng như pháp lý công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng không thể hiểu là văn kiện Hà Nội công nhận vùng biển hình lưỡi bò là của Trung quốc.
Thực tế là từ năm 1991 sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ, mặc dù quan hệ giữa Việt Nam và Trung quốc rất tốt đẹp và Việt Nam bị lệ thuộc vào Trung quốc về mặt kinh tế cũng như chính trị một cách nặng nề, Việt Nam vẫn luôn khẳng định bằng lời hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Bằng lời là vậy nhưng Hà Nội chưa bao giờ công bố lập trường của mình đối với vùng biển hình lưỡi bò một cách chính thức trước quốc tế bằng văn bản.
Hôm 10/11/2009 nhân Ban Tuyên Giáo Trung ương đảng cộng sản Việt Nam triệu tập “Hội nghị tuyên truyền biển đảo và phân giới cắm mốc” có tính nội bộ do Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Phạm Văn Linh chủ tọa, một bản tin do VietnamNet một cơ sở thông tin “online” của chính quyền Hà Nội phổ biến tiết lộ rằng trong tháng 5/2009 Việt Nam đã gởi văn thư đến Ủy ban Ranh Giới thềm Lục địa Liên hiệp quốc bác bỏ yêu sách vùng biển hình lưỡi bò của Trung quốc.


Văn kiện phản bác của Việt Nam gởi Liên hiệp quốc ngày 8/5/2009 sau khi Việt Nam và Mã Lai Á chính thức gởi hai báo cáo quốc gia, một của Việt Nam (VNM-N) và một viết chung với Mã Lai Á (MYS-VNM) đến Ủy ban Ranh Giới thềm Lục địa Liên hiệp quốc xác định ranh giới thềm lục địa Việt Nam đồng thời khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (TBN: xem tài liệu “Chung quanh vấn đề Việt Nam đăng ký thềm lục địa ngoại biên” số 311 www.tranbinhnam.com) và bị Trung quốc phản đối.
Bản tin VietnamNet viết: “Sau khi Việt Nam nộp Báo cáo thềm lục địa ra Liên hiệp quốc, phái đoàn thường trực của Trung quốc tại Liên hiệp quốc đã gởi các công hàm đến ông Tổng thư ký  Liên hiệp quốc phản đối hai báo cáo trên và yêu cầu Ủy ban Ranh Giới thềm Lục địa Liên hiệp quốc không xem xét báo cáo chung (MYS-VNM) và báo cáo khu vực phía Bắc (VNM-N) của Việt Nam và đồng thời và cũng là lần đầu tiên chính thức khẳng định yêu sách vùng biển hình lưỡi bò trên Biển Đông.
Bản tin VietnamNet viết tiếp: “Phái đoàn Việt Nam tại Liên hiệp quốc đã gởi công hàm phản đối công hàm của phía Trung quốc, khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bác bỏ yêu sách vùng biển hình lưỡi bò, coi đây là yêu sách phi lý, không có cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tiễn”. 
Như vậy, về đảo, qua Báo cáo quốc gia trình Ủy ban Ranh Giới thềm Lục địa Liên hiệp quốc, Việt Nam đã chính thức tuyên bố trước thế giới bằng văn bản rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Và về biển qua văn thư gởi Liên hiệp quốc ngày 8/5/2009 Việt Nam đã bằng văn bản bác bỏ yêu sách vùng biển hình lưỡi bò trên Biển Đông của Trung quốc. Một điểm đáng lưu tâm là trong tháng 5/2009 Việt Nam đã không tiết lộ rằng Việt Nam đã gởi công hàm phản bác sự đòi hỏi chủ quyền Biển Đông của Trung quốc .
Việt Nam hoặc quá nể Trung quốc hoặc quá tế nhị về ngoại giao nên không công khai tiết lộ lập trường của Việt Nam đối với vùng biển hình lưỡi bò, hồi tháng 5/2009 vừa qua. Chờ cho đến ngày 10/11/2009 vừa qua mới công bố .
Trễ 6 tháng! Nhưng trễ còn hơn không.
Chuyến công du Á châu của tổng thống Obama  từ ngày 13 đến ngày 17/11 cho thấy Hoa Kỳ dù bận tay đối phó với các vấn đề cấp thiết khác như chiến tranh Iraq, Afghanistan, vấn đề Iran đang chế tạo vũ khí nguyên tử và cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Hoa Kỳ cũng không quên vai trò của mình tại Á châu là cân bằng quyền lực với lực lượng đang lên của Trung quốc.
Khó nói được chuyến đi của tổng thống Obama có ảnh hưởng gì đến thái độ mới của Việt Nam đối với Trung quốc không. Nhưng nếu có cũng không thay đổi được gì tư thế của Việt Nam trong cuộc tranh chấp biển đảo với Trung quốc nếu chính quyền đảng cộng sản Việt Nam chưa phát huy nội lực của toàn dân.
Bài học của tiền nhân là sống cạnh nước lớn, chúng ta phải khiêm nhường và khéo léo để tồn tại. Vua Lê Lợi giết Liễu Thăng giành được độc lập vẫn phải làm một Liễu Thăng bằng vàng để triều cống Trung quốc. Vua Quang Trung sau khi đánh tan 10 vạn quân của Tôn Sĩ Nghị vẫn phải xin Bắc Triều phong vương. Nhưng vua Lê Lợi cũng như vua Quang Trung đều cho người Trung Hoa hiểu rằng nếu Trung quốc còn manh tâm xâm chiếm Việt Nam họ sẽ bị đánh tan. Tiền nhân đã chứng tỏ Việt Nam nhún nhường phận nước nhỏ nhưng không hèn nhát.
Việt Nam hôm nay đứng trước một thử thách lịch sử là lại đứng trước người khổng lồ phương Bắc đang triển khai sức mạnh với tâm lý nước lớn ngàn đời không thay đổi. Và sự đe doạ lần này có vẻ nghiêm trọng hơn bất cứ sự đe doạ nào trong 2000 năm qua.
Nhưng Việt Nam không phải không có lối để tồn tại như một quốc gia độc lập. Ngoài nội lực phong phú của dân tộc, khung cảnh toàn cầu liên đới quyền lợi cũng là một vũ khí của chúng ta.
Biết khai thác thế nhân dân, biết khai dụng thế liên kết thế gìới vì quyền lợi hỗ tương, Việt Nam còn có rất nhiều đường để thoát hiểm.
Nhiều người cho rằng đảng cộng sản Việt Nam đã để cho Trung quốc bắt nạt quá lố và quá trễ để còn có thể phản ứng tự vệ.
Nhưng cứ nên xem bát nước đầy một nửa và … trễ còn hơn không.
Trần Bình Nam
Nov. 16, 2009
[email protected]
www.tranbinhnam.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.