Hôm nay,  

Bush, Iraq Và Chiến Tranh Việt Nam

25/08/200700:00:00(Xem: 9856)

Ngày 17/3/2003 tổng thống Bush ra lệnh tấn công lật đổ Saddam Hussein. Chiến trường Iraq chưa êm tiếng súng các nhà quan sát Tây phương, Úc châu, nhất là Hoa Kỳ đã so sánh cuộc chiến Iraq với cuộc chiến Việt Nam trước đó mấy thập niên .

Cho nên hôm Thứ Ba 22/8/2007 xuất hiện trước đại hội của Hội cựu chiến binh Hoa Kỳ từng chiến đấu tại nước ngoài (Veterans of Foreign Wars) triệu tập tại thành phố Kansas City, bang Missouri tổng thống Bush đã so sánh cuộc chiến Iraq với cuộc chiến Việt Nam không làm ai ngạc nhiên. Nhưng dư luận ngạc nhiên về cách so sánh.

Các học giả và các nhà chiến lược so sánh sự sa lầy của Hoa Kỳ vào cuộc chiến Việt Nam với sự sa lầy hiện nay tại Iraq để khuyến cáo Hoa Kỳ cần có một kế hoạch rút lui trước khi quá muộn. Trong khi đó tổng thống Bush so sánh hai cuộc chiến Iraq và Việt Nam chỉ ở chỗ nếu Hoa Kỳ phải rút lui như sự thúc bách của dư luận quần chúng thì thảm cảnh sẽ diễn ra tại Iraq như nó đã diễn ra tại Việt Nam sau khi Hoa Kỳ rút quân.

Tổng thống  Bush nói: “Chúng ta từng tranh luận tại sao chúng ta liên hệ đến cuộc chiến Việt Nam, và chúng ta đã rút quân ra như thế nào”. Và tổng thống Bush kết luận: “Dù nội dung của cuộc tranh luận như thế nào, một bài học không thể chối cãi được là cuộc rút lui của chúng ta đã trả giá bằng hằng triệu sinh linh vô tội mà sự đau khổ họ gánh chịu đã làm cho kho tàng ngôn ngữ chúng ta thêm những danh từ như thuyền nhân, trại cải tạo và những cánh đồng giết chóc (1).

Không ai chối cãi tổng thống Bush đã vẽ một bức tranh chính xác về những thống khổ của nhân dân miền nam Việt Nam (và dân Kampuchia) khi Hoa Kỳ rút quân năm 1975 ra khỏi Đông Dương. Nhưng nếu muốn so sánh cuộc chiến Iraq với cuộc chiến Việt Nam để rút ra những bài học cần thiết thì cần so sánh toàn diện hai cuộc chiến từ lúc khởi đầu cho đến khi kết thúc.

Nếu Hoa Kỳ không đánh Iraq năm 2003 thì Saddam Hussein vẫn còn đó nhưng tình hình chính trị tại Trung đông không suy đồi và thế đứng của Hoa Kỳ trên thế giới không suy giảm như hiện nay. Nhân dân Iraq có thể không sung sướng gì sống dưới chế độ độc tài của Saddam Hussein, nhưng chắc hẵn không phải sống một cuộc sống bất an nay sống mai chết vì chiến tranh huynh đệ tương tàn như hiện nay.

Trái lại khởi đầu cuộc chiến Việt Nam, Hoa Kỳ dựa vào một chủ thuyết có căn bản là chủ thuyết domino chủ trương rằng nếu Việt Nam rơi vào tay cộng sản, cơn hồng thủy từ Trung quốc (với sự yểm trợ sau lưng của Liên bang Xô viết) sẽ ồ ạt chảy tràn ra cả vùng Đông nam á đe dọa cả Ấn độ và Úc châu. Sau ngày 30/4/75 miền Nam Việt Nam mất, cơn hồng thủy đã không diễn ra, nhưng điều đó không có nghĩa thuyết domino đã không diễn ra nếu Việt Nam và toàn cõi Đông Dương rơi vào tay cộng sản sớm hơn 10 năm. Trong 10 năm (1965-1975) nhờ sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ và cuộc chiến đấu của nhân dân miền Nam, các nước Đông nam á có một thời gian để phát triển kinh tế, trở nên tự lực tự cường, và quan trọng nhất là trong thời gian đó xẩy ra sự lục đục giữa Trung quốc và Liên bang Xô viết. Những yếu tố đó đã làm cho thuyết domino không trở thành hiện thực. Một thí dụ: trong thời gian từ 1960 cho đến 1973 Hoa Kỳ đã trực tiếp hay gián tiếp đầu tư vào Thái Lan (chưa nói đến Nam Hàn, Phi Luật Tân và Singapore) hơn 2 tỉ mỹ kim. Chính phủ Thái Lan đã dùng viện trợ kinh tế của Hoa Kỳ xây dựng hạ tầng cơ sở giúp cho nền kinh tế Thái Lan sau năm 1975 vững mạnh để không quá sợ hãi sự lấn chiếm của Việt Nam (2)

Ngoài ra trước khi rút lui Hoa Kỳ đã thấy sự thất bại trước mắt do sự lãnh đạo cuộc chiến sai lầm ngay từ đầu khi Hà Nội khởi sự xâm lăng miền Nam. Tháng 5 năm 1961 tại Geneva tổng thống Kennedy cùng với Liên bang Xô viết, Trung quốc và Hà Nội ký hiệp định cam kết tôn trọng nền trung lập của Lào. Hoa Kỳ đã tôn trọng hiệp định này không hành quân qua Lào trong suốt cuộc chiến Việt Nam (ngoại trừ các hoạt động tình báo) đã cho phép Bắc việt mở đường mòn Hồ Chí Minh, một hành lang tiếp vận cho đội quân xâm lược của họ ở miền Nam. Cho mãi đến đầu năm 1971 Hoa Kỳ mới đồng ý để quân đội Việt Nam Cộng hòa mở cuộc hành quân Lam Sơn đánh qua Lào tại vùng Tchepone, nhưng chỉ là một chiến dịch để Hoa Kỳ mua thời gian rút lui khi cuộc hội đàm Paris đang bước vào giai đoạn kết thúc.

Sai lầm khác của chính phủ Johnson và Nixon là chỉ đánh giặc một tay vì lúc nào cũng lo sợ Trung quốc biến chiến tranh Việt Nam thành một vụ Cao ly thứ hai. Từ năm 1964 khi Hoa Kỳ khởi sự oanh tạc Bắc việt không quân Hoa Kỳ được lệnh tránh xa các khu quân sự và kỹ nghệ miền Bắc nghi có sự hiện diện của các cố vấn Trung quốc hay Liên xô sợ gây tổn thất nhân mạng tạo cớ cho Trung quốc can thiệp (2). Cũng vì sự lo sợ này, khi đưa quân đến Việt Nam Hoa Kỳ ngầm cho Trung quốc hiểu Hoa Kỳ không có ý định lật đổ chế độ Hà Nội.

Sau cùng là sai lầm về chính trị. Hoa Kỳ không muốn một chính quyền mạnh tại miền Nam độc lập đối với Hoa Kỳ. Hoa Kỳ chỉ muốn một chính quyền biết vâng lời để Hoa Kỳ có thể tiến hành cuộc chiến Việt Nam như một phần của sách lược toàn cầu của mình.

Với những sai lầm về lãnh đạo chiến tranh như vậy, cộng thêm uy tín chính trị quá yếu kém của tổng thống Nixon do vụ Watergate, Hoa Kỳ không thể chống trả sự vi phạm Hiệp định Paris của Hà Nội. Và sau khi tổng thống Nixon từ chức, tổng thống Ford không có một con đường nào khác hơn là vội vàng bỏ miền Nam khi Hà Nội quyết định dồn toàn lực (bỏ trống miền Bắc) tiến đánh Sàigòn.

Cho nên so sánh hai cuộc chiến như tổng thống Bush so sánh chẳng khác gì người mù ôm chân một con voi và bảo đấy là cái cột nhà. Tổng thống Bush khó bác bỏ những lời phê bình ông là “cưỡng chế” một bức tranh lịch sử để biện minh cho một chính sách (Iraq) sai lầm của mình.

Nhiều học giả đã so sánh cuộc chiến Iraq và cuộc chiến Việt Nam.

Ngày 4/4/2003 (hơn 2 tuần lễ sau khi quân đội Hoa Kỳ vượt biên giới Iraq trực chỉ Baghdad) giáo sư sử học Martin Stuart-Fox  thuộc đại học Queensland tại Úc châu trong một bài viết nhan đề: “Iraq And The Spectre of Vietnam” (Iraq và bóng ma cuộc chiến Việt Nam) đã viết:

“Trước một lực lượng áp đảo, chiến thuật duy nhất của kẻ yếu là đánh du kích. Hoa Kỳ không tiên liệu được rằng quân đội Iraq sẽ biến thành những đội du kích trước sức mạnh của liên quân, hay ít nhất lực lượng không chính qui Fedayeen sẽ khoác thường phục lẫn vào quần chúng. Du kích chiến không làm cho Iraq thắng trận nhưng sẽ ngăn không cho liên quân ổn định tình hình và tuyên bố chiến thắng.

“Liên quân sẽ vào Baghdad, và cuộc chiến du kích bắt đầu. Sẽ có  những trận đánh trên đường phố, những trận phục kích, những vụ tự sát... Liên quân sẽ đưa thêm quân, và tổn thất dân sự càng ngày càng được thấy trên màn ảnh truyền hình. Sau một thời gian liên quân bắt đầu đếm xác chết của du kích quân Iraq để đo lường sự tiến bộ của công cuộc bình định như trong cuộc chiến Việt Nam. Cuộc chiến tiếp tục dù Saddam Hussein còn sống hay chết và chế độ của ông ta đã bị lật nhào.” (link: http://www.tranbinhnam.com/binhluan/IraqvaVietNam.html)

Những gì diễn ra tại Iraq cho đến cuối tháng 8/2007 hôm nay cho thấy sự tiên đoán của giáo sư Martin Stuart-Fox đang biến thành sự thật.

Đó là chưa nói đến những điều chung quanh cuộc chiến Iraq đã được hé lộ từ đầu cuộc chiến đến nay. Một chuỗi sai lầm từ ngụy tạo tin tức tình báo đến lãnh đạo chiến tranh sau khi tiến quân vào Baghdad như không kiểm soát các kho vũ khí cổ điển của Saddam Hussein, giải giới quân đội Iraq và cách chức tất cả  đảng viên đảng Baath ra khỏi chính quyền mới. Các quyết định này đã cung cấp nhân sự, vũ khí và căm thù cho thành phần Hồi giáo quá khích hệ phái Sunni để tổ chức cuộc chiến du kích như giáo sư Martin Stuart-Fox tiên liệu.

Cuối năm 2006, Nhóm Nghiên Cứu Iraq (Iraq Study Group – ISG) gồm 10 nhân vật thuộc hai đảng Cộng hòa và Dân chủ cầm đầu bởi ông James Baker III, bộ trưởng ngoại giao dưới thời tổng thống George H. W. Bush, và Lee H. Hamilton, dân biểu Dân chủ, nguyên chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Hạ nghị viện sau nhiều tháng nghiên cứu đã trình tổng thống Bush một đề nghị giải quyết cuộc chiến Iraq như Hoa Kỳ đã giải quyết chiến tranh Việt Nam là “Iraq hóa chiến tranh Iraq” (mặc dù trong bản báo cáo không hề dùng nhóm chữ đó), và Hoa Kỳ cần thay đổi chính sách Trung đông để tạo sự hòa giải với người Hồi giáo như nói chuyện với Iran và Syria, đồng thời tích cực tìm một giải pháp cho cuộc tranh chấp Do thái – Palestines. (link: http://www.tranbinhnam.com/binhluan/Iraq_Hoa_Chien_Tranh.html

Bản chất hai cuộc chiến Việt Nam và Iraq khác nhau, nhưng sự sai lầm về lãnh đạo chính trị hai cuộc chiến giống nhau và hậu quả tồn tại sau khi Hoa Kỳ rút quân cũng có thể giống nhau. Và điều giống nhau hơn nữa là Hoa Kỳ không có một chọn lựa nào khác là rút quân đế tránh tổn thất lâu dài và trầm trọng cho tư thế siêu cường của Hoa Kỳ trên thế giới, một tư thế rất cần cho nền hòa bình thế giới.

Tổng thống Bush không phải không thấy con voi, nhưng ông giả vờ chỉ thấy cái chân và gọi là cái cột nhà để mua thời gian. Tổng thống Bush có thể muốn làm một thử nghiệm cuối cùng sau khi thủ tướng Nuri al Maliki ra đi (việc ra đi của thủ tướng Maliki chỉ là vấn đề thời gian) và tân thủ tướng sẽ có một thời gian để giải quyết tranh chấp phe nhóm và ổn định tình hình. Trong khi đó Hoa Kỳ chuẩn bị rút quân (bản báo cáo của tướng David Petraeus, tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại Iraq và đại sứ Ryan Crocker sẽ đệ trình tổng thống và quốc hội vào tháng 9 tới có thể cũng nằm trong chiều hướng đó).

Dù sao Hoa Kỳ cũng nên rút quân ra khỏi Iraq với giải pháp toàn bộ như đề nghị của bản phúc trình Baker-Hamilton. Và nếu những nhà lãnh đạo chính trị Hoa Kỳ lắng nghe tiếng nói của giới truyền thông như tiếng nói của phóng viên Christiane Amanpour qua loạt phóng sự “Gods Warriors” của bà vừa chiếu trên đài CNN trong ba ngày 21, 22 & 23/8/2007 thì đáp số cho cuộc chiến tranh Iraq và cuộc chiến chống khủng bố không phải không có.

Trả lời một số câu hỏi của khán giả xem phóng sự, bà Amanpour nhấn mạnh rằng không phải chỉ có người theo đạo Hồi mới quá khích và sẵn sàng giết người khác cho tôn giáo mình mà những người theo Thiên chúa giáo và Do thái giáo quá khích cũng từng làm như vậy.

Trả lời một câu hỏi khác tại sao Thiên chúa giáo, Hồi giáo và Do thái giáo đều tôn thờ thánh Abraham và cùng chủ trương thương yêu đồng loại, nhưng lại thù ghét nhau, có phải vì họ hiểu lầm nhau không, bà Amanpour nói: “Những người quá khích trong cả ba tôn giáo đều rất thận trọng khi trả lời các câu hỏi của tôi về vấn đề này. Họ không bao giờ xác nhận họ thù ghét nhau. Nhưng thực tế là khi đụng chạm đến chính trị như chiến tranh và hòa bình, chia đất chia đai thì quả thật họ rất thù ghét nhau.”

Trả lời một câu hỏi khác rằng có quá trễ để hóa giải sư hận thù giữa những người sẳn sàng chết cho tôn giáo mình không, bà Amanpour phát biểu rằng, theo bà thì không quá trễ. Nhưng bà nghĩ không thể giải quyết hận thù của nhóm al Qaeda chẳng hạn bằng giải pháp quân sự mà phải giải quyết bằng sự hòa giải về mặt tôn giáo trong đại khối quần chúng, đặc biệt là đại khối quần chúng của ba tôn giáo Thiên chúa giáo, Do thái giáo và Hồi  giáo. Một khi quần chúng thỏa mãn với niềm tin của mình trong đời sống thường nhật họ sẽ không ủng hộ những nhóm quá khích thì những nhóm quá khích này sẽ tự tan biến và thế giới có hòa bình.

Trần Bình Nam

August 24, 2007

[email protected]

www.tranbinhnam.com

(1) Nguyên văn: … “Three decade later, there is a legitimate debate about how we got into the Vietnam War and how we left. ….. Whatever your position in that debate, one unmistakable legacy of Vietnam is that the price of Americas withdrawal was paid by millions of innocent citizens, whose agonies would add to our vocabulary new terms like boat people, re-education camps and killing fields.”  

(2) Theo “The Vietnam War for Dummies” của Ronald Frankum, Jr. và Stephen F. Maxner, nhà xuất bản Wiley Publishing, Inc.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tính đến nay 14-3-2022, cuộc chiến Nga xâm lược Ukraine bước sang ngày thứ 19. Chiến sự vẫn xảy ra ngày càng ác liệt gây bao đau thương tang tóc cho hai dân tộc Nga và Ukraine.
Người dân cả thế giới xúc động về cuộc chiến tranh thảm khốc ở Ukraine khi bị Nga vô cớ xâm lăng. Tổng Thống Ukraine, Volodymyr Zelensky và gia đình chống ngoại xâm; chính phủ, dân chúng, quân đội, nông dân, người nào cũng cầm súng. Tổng Thống Ukraine và người dân một lòng giữ từng tấc đất của ông bà cha mẹ để lại...
Việt Nam vẫn luôn khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có lịch sử lâu đời của Việt Nam, là lãnh thổ thiêng liêng của Việt Nam. Nhưng Việt Nam hoàn toàn câm lặng chấp nhận quân đội Tàu cộng xâm lược làm chủ quần đảo Hoàng Sa, và một phần quần đảo Trường Sa.
...Trong chương trình « Face the Nation » của hãng thông tấn CBS, Thượng nghị sĩ John McCain đã giải thích tại sao nước Mỹ cần nghĩ đến sự đe dọa của Nga vì «Vladimir Putin là một tên côn đồ, một kẻ giết người và một điệp viên KGB»....
Bình luận của tác giả Đào Như về khả năng một cuộc Thế Chiến III.
Khi quyết định xâm lăng Ukraine, Vladimir Putin đã tính sai nước cờ chiến lược. Ông ta đã tính sai xu hướng chính trị ngay trong quốc gia Nga, đã tính sai phản ứng của Hoa Kỳ, Liên hiệp Châu Âu và một số các quốc gia khác như Úc, Nhật, Canada, Nam Hàn, những nước có khả năng hợp tác cùng nhau đánh sập kinh tế Nga. Và, Putin đã tính sai công luận thế giới. -- Vậy thì Putin thắng hay bại? Xin mời theo dõi bài phân tích và bình luận sau của tác giả Trịnh Khải Nguyên-Chương. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
✱ Kyiv muốn các thẩm phán của Liên Hợp Quốc phán quyết vụ tấn công của Nga phạm tội diệt chủng ✱Tòa án Hình sự Quốc tế đã bắt đầu điều tra xem Tổng thống Nga có phải chịu trách nhiệm về các tội ác chống lại thường dân ở Ukraine hay không ✱ Phát ngôn viên chính phủ Pháp Gabriel Attal tuyên bố : « Việc Nga tấn công bệnh viện nhi đồng ở Mariupol là hành động vô nhân đạo và hèn nhát » ✱ Cuộc chiến của Stalin ở Ukraine - giết chết 3.9 triệu người dân Ukraine năm 1932 ...✱ Thượng viện Hoa Kỳ, trong một nghị quyết năm 2018, khẳng định rằng Stalin đã phạm tội diệt chủng.
Sợ Nga nổi giận mà Việt Nam đã theo đuôi Trung Cộng bỏ “phiếu trắng” về cuộc xâm lăng Ukraine của Nga trong cuộc biểu quyết tại Liên Hiệp Quốc ngày 2/3/2022. -- Dựa trên phát biểu của những quan chức chính phủ CSVN, tác giả Phạm Trần nêu rõ tính ngụy biện hàm hồ của nhà nước Cộng sản VN trước thảm họa chiến tranh Ukraine do Nga gây nên. Trong khi cả thế giới văn minh lên án Nga thì nhà nước VN vẫn một lòng bênh vực. Quả là một quốc nhục.
Chìa khóa hay mấu chốt cho cuộc xung đột ngày hôm nay là Ukraina không trở thành mối nguy cho Nga. Ukraina phải là nước độc lập và trung lập. Nhưng vấn đề không thuộc thẩm quyền của Ukraina mà nằm trong lòng bàn tay Mỹ. Một quy chế trung lập cho Ukraina phải được bảo đảm bởi Hoa Kỳ và Âu Châu chứ Kiev và Moscova không thể đơn phương tuyên bố mà được. -- Nhận định của tác giả Đào Văn Bình, Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Chính phủ Đức đã tỏ ra phản ứng thận trọng khi từ chối yêu cầu tẩy chay vì lo sợ tình trạng khan hiếm và lạm phát sẽ làm ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Tóm lại, các nhận định của Nouriel Roubini trong bản dịch sau đây là bi quan, nhưng các ảnh hưởng của chiến tranh Ukraine cho nền kinh tế toàn cầu sẽ còn có những hiệu ứng càng khó lường đoán và gây nguy hại hơn.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.