Hôm nay,  

Bước Chân Lịch Sử

28/10/200900:00:00(Xem: 6036)

Bước Chân Lịch Sử

Huệ  Trân
Tuần lễ cuối của tháng 10/2009, một tấm hình trên trang nhất của tờ Việt Báo đã bập bùng trong tôi hình ảnh bi hùng của một đêm tháng 5 năm 1977 tại thành phồ Kralow, nước Ba Lan.
Lịch sử thế giới đã mô tả thế chiến thứ hai như là một địa ngục trần gian, không một dân tộc nào không bị đọa đầy, tàn sát. Đất nước Ba Lan được nhận định là chịu nhiều thảm họa nhất, về cả nhân mạng lẫn tài sản.
Cuộc bầu cử gian lận ngày 19 tháng giêng năm 1947 đã đẩy toàn dân Ba Lan vào cuộc sống lầm than, bị tước đoạt nhân quyền và dưới sự kiểm soát hà khắc của một tập đoàn nhà nước đã thần phục Cộng Sản Nga Sô.
Cuộc tranh đấu bất bạo động suốt ba thập niên của dân chúng Ba Lan đã để lại biết bao kinh nghiệm đắng cay, bi thảm mà trong đó không bao giờ thiếu vắng những vị lãnh đạo tôn giáo. Bất kỳ dưới chế độ hà khắc, áp bức nào, giới tu sỹ luôn có mặt với dân chúng để cùng chịu chung sự khủng bố, tù đầy, chết chóc. Những năm tháng đó, Hồng Y Szefan Wyszynski, tổng giám mục Ba Lan, dù khi ở trong tù hay sau khi được thả, không khi nào không cùng nói lên tiếng nói với các thành phần trí thức, sinh viên, công nhân, đại diện toàn dân Ba Lan đòi hỏi tự do và nhân quyền.
Ngày 7 tháng 5 năm 1977, người ta nhìn thấy một xác chết, bị đập bể sọ, nơi góc cầu thang dẫn lên một chung cư. Đó là xác sinh viên Stanislaw Pyjas, 23 tuổi, sinh viên ban triết học trường đại học Kralow. Anh là thủ lãnh sinh viên đoàn, người đã vận động sinh viên các trường ký thỉnh nguyện thư gửi Quốc Hội, tố cáo nhà nước đã vi phạm trầm trọng những quyền căn bản của con người.
Hôm ấy, tiếng chuông trong khắp các giáo đường, các trường học đều đồng loạt ngân vang …. ngân mãi …. ngân suốt dọc đường bất tận mà bạn bè và dân chúng đưa Pijas đến nghĩa trang. Tiếng chuông gọi hồn dân tộc đó dù chấm dứt trong không gian nhưng không chấm dứt trong lòng người nên đêm ấy, cũng trong đêm ấy, khi màn đêm buông xuống là lúc thành phố Kralow chập chờn di động trong muôn ngàn ánh nến lung linh. Ban đầu, người ta ước lượng khoảng 5000 sinh viên , cầm nến trên tay và thầm lặng tiến về trung tâm Royal Castle. Nhưng sự kỳ diệu đến rợn người đã diễn ra bất ngờ khi mỗi căn nhà đoàn sinh viên đi qua là mỗi cánh cửa mở rộng, và người trong nhà, cũng như thế, nến trên tay và thầm lặng nhập đoàn.
Cả một thành phố thầm lặng bước trong đêm, dưới ánh nến bập bùng, nhưng chắc đã soi tỏ tận địa ngục A-Tỳ!
Hôm nay, tấm hình trên Việt Báo với hàng trăm tu sỹ và dân chúng Tây Tạng lưu vong, cùng thắp nến tại ngôi chùa Boudhanath Stupa, thuộc ngoại ô Kathmandu, Nepal để phản kháng Trung Quốc vừa kết án tử hình bốn người Tây Tạng, đã khiến tôi liên tưởng tới đêm bạch lạp kỳ diệu năm xưa.
Cái lý do ghi chú trên tấm hình này tuy chỉ là cầu nguyện và lên tiếng cho bốn người Tây Tạng nhưng chúng ta đều biết, đây là tiếng nói u uất từ nhiều thập niên, cất lên cho đất nước Tây Tạng đã bị Trung Quốc xâm chiếm, cho toàn dân Tây Tạng đã bị Trung Quốc áp bức và mưu đồ đồng hóa.
Đường xe lửa nối liền Hoa Lục và Tây Tạng đang ồ ạt đưa người Hán vượt biên hợp pháp, đem theo hành trang ngũ trược cồng kềnh với rắp tâm bôi xóa giá trị đạo đức căn bản của một xứ sở bốn mùa trầm lắng tiếng chuông ngân. 


Nền văn hóa Tây Tạng luôn nằm trong những dự án thẳng tay tiêu diệt của Trung Quốc vì kẻ xâm lược biết, văn hóa mất là dân-tộc-tính mất theo. Dân-tộc-tính không còn thì còn chi dân tộc!
Làm thân phận nhược tiểu luôn bị kẻ lớn hiếp đáp thì điều tiên quyết phải giữ, là nền văn hóa đặc thù. Tự ngàn xưa, Quan Phục hầu Nguyễn Trãi đã viết trong Bình Ngô Đại Cáo:
“ … Như nước Việt ta từ trước
Vốn xưng văn hiến đã lâu
Sơn hà cương vực đã chia
Phong tục Bắc, Nam cũng khác …”
Rồi những thời bị đô hộ nhục nhằn, Bắc phương cũng không ngừng bắt dân ta cạo răng trắng, bện tóc đuôi sam, đội nón vải tròn, khiến đại đế Quang Trung Nguyễn Huệ từng phải thét vang:
“Đánh cho răng đen, đánh cho dài tóc, đánh cho chích luân bất phản, đánh cho phiến giáp bất hoàn, đánh cho Nam Quốc sơn hà tri hữu chủ”
Trung Cộng xâm chiếm và đàn áp Tây Tạng trước mắt thế giới!
Thế giới vẫn còn lương tâm nhưng sao không ngăn chặn, không lên tiếng bênh vực"
Thế giới từng cảm phục, chứng kiến hình ảnh người sinh viên trẻ Tây Tạng, tên Thupten Ngodup tự tẩm xăng, phựt lửa trên thân mình, chạy ra giữa phố chính ở New Delhi, nơi sẽ sửa soạn đón một lãnh tụ Trung Quốc mà cảnh sát đang thẳng tay giải tán đoàn người Tây Tạng tuyệt thực đòi độc lập. Đúng lúc đó, cây-đuốc-sống xuất hiện bất ngờ, dùng tàn lực hô lớn “Độc lập cho Tây Tạng!” rồi chạy xuyên vào đám đông khiến cảnh sát không thể chặn nổi anh. Với lửa phừng phừng trên da thịt, anh cứ lảo đảo vừa chạy vừa hô “Độc lập cho Tây Tạng! Độc lập cho Tây Tạng ….” Cho đến khi kiệt lực, ngã quỵ với hai tay chắp trước ngực.
Ngay cả phút cuối của đời sống, anh cũng dành động tác sau cùng để cầu nguyện cho quê hương, cho dân tộc.
Lịch sử không bỏ sót một điều gì. Thiện, ác luôn còn đó, không mặt nạ nào tồn tại để che đậy mãi được.
Một Đức Như Lai giác ngộ, năng lượng từ bi lập tức thấm nhuần khắp đại địa.
Một đấng anh hùng khai sinh, lập tức tinh anh hào kiệt soi sáng bao hậu thế.         
Nhất điểm hoa mai nhụy
Tam thiên thế giới hương (*)
Hai câu thơ chỉ có mười chữ thôi mà nức lòng chi lạ!
Hoa mơ một chút nhụy
Ba nghìn thế giới thơm (**)
Hôm nay, tôi không đọc thêm tin tức gì, chỉ ngồi lặng, nhìn mãi tấm hình những tu sỹ và dân chúng Tây Tạng lưu vong, uất nghẹn và nhẫn nhục thầm lặng thắp nến cho những mất mát đau thương của quê hương, dân tộc.
Tôi ngồi yên, và nhìn mãi, nhìn cho thấy tấm hình lột xác, những người trong hình đang di động, đang đi ngang từng căn nhà, từng thành phố, từng quốc gia ….
Tinh thần tranh đấu bất bạo động của dân tộc Ba Lan khi xưa có bùng lên ánh lửa nào, để những căn nhà, những thành phố, những quốc gia mà người Tây Tạng đang thắp nến đi qua sẽ mở cửa, mở cửa …. Không cần làm gì nhiều, chúng ta chỉ thắp một cây nến, mở cửa, và thầm lặng nhập đoàn cùng họ. Một nhà, một thành phố, một quốc gia sẽ thành mọi nhà, mọi thành phố, mọi quốc gia….
Chỉ thế thôi.
Chúng ta thắp nến cho Tây Tạng.
Chúng ta thắp nến cho Việt Nam.
Chúng ta thắp nến cho bất cứ nơi nào mà nhân phẩm và tự do bị chà đạp.
Chúng ta bước theo lời Phật dạy, lời Chúa ban.
Chúng ta theo dấu chân Mohandas Karamachand Ganhdi của phương đông, Martin Luther King của phương tây.
Toàn thế giới sẽ cùng bước những bước chân lịch sử cho hạnh phúc nhân loại.  
Huệ  Trân
(Đường về một mình, tháng 10/2009)
(*) Thiền Tâm cửu tập
(**) Nhật Chiêu dịch 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.