Hôm nay,  

Vụ Wikileaks Và Màn Tháo Chạy

02/08/201000:00:00(Xem: 10776)

Vụ WikiLeaks và Màn Tháo Chạy

Nguyễn Xuân Nghĩa

Dùng dằng chưa nỡ rời tay, Bỗng WikiLeaks đánh ngay một đòn...

Trang website WikiLeaks đã phối hợp với ba nhật báo The New York Times tại Mỹ, tờ The Guardian tại Anh và tờ Der Spiegel để cùng một ngày Chủ Nhật 25, tung ra hơn 91.000 tài liệu mật của bộ Quốc phòng Hoa Kỳ về nhiều diễn biến xảy ra trong cuộc chiến A Phú Hãn từ năm 2004 đến đầu năm 2010. Dĩ nhiên là chính quyền Hoa Kỳ phản đối việc tiết lộ này, nhưng đến nay chưa hề phủ nhận tính chất xác thực - hay không - của các tài liệu.
Tuy nhiên, dù là xác thực thì các tài liệu vẫn chưa thể trình bày toàn bộ cuộc chiến mà chỉ đưa ra một số dữ kiện, có khi là cục bộ hay chiến thuật, mà thôi. Xuyên qua những gì đã được tiết lộ, ta thấy rằng một số nhận thức chung về cuộc chiến APH - xin viết tắt cho gọn về chiến trường Afghanistan - đã được kiểm chứng.
Thứ nhất, lực lượng Taliban vẫn mạnh và có khả năng dùng hỏa tiễn cầm tay - hệ thống phòng không được vác trên vai ("Man-Portable Air Defense Systems", viết tắt là MANPADS). Điều ấy có thể gây khó cho các trực thăng của Hoa Kỳ và Liên quân NATO. Nhưng thực tế, nếu đếm lại số trực thăng bị rớt vì mọi lý do, kể cả hỏa lực địch, thì tổn thất này không tăng mà còn giảm. Dù sao, chuyện tổn thất ấy không phủ nhận được khả năng tung hoành của Taliban, với loại hỏa tiễn SA-7 có thể còn lại từ thời chiến tranh chống Liên Xô 1979-1989.
Từ đó, mình suy đoán ra khả năng tiếp vận và bảo vệ các hậu cứ của Taliban vì lực lượng này chưa thể chế tạo ra loại võ khí ấy. Nhưng chi tiết về MANPADS cũng cho thấy Taliban chưa có loại hoả tiễn tân kỳ hơn, với ống nhắm bằng hồng ngoại tuyến chẳng hạn. Vì vậy, thuần về quân sự, Taliban chưa thể đảo ngược được tình hình chiến sự. Nhưng vấn đề không phải là quân sự.
Thứ hai, Taliban có khả năng tiếp vận nên mới sử dụng hỏa tiễn cầm tay, và vẫn có hậu cứ nằm đâu đó trong lãnh thổ Pakistan. Vấn đề hậu cứ ấy được các tài liệu do Wikileaks tiết lộ xác nhận: Một mặt, Pakistan không cho Hoa Kỳ truy đuổi Taliban hay al-Qaeda trong lãnh thổ của mình, mặt khác, nhiều tướng lãnh trong cơ quan mật vụ ISI vẫn lặng lẽ yềm trợ Taliban. Thiếu tướng Hamid Gul - cầm đầu mật vụ ISI từ 1987 đến 1989 - là một trong các nhân vật đó.
Chi tiết ấy có thể là một tin nóng cho truyền thông, nhưng không là sự lạ cho lãnh đạo Hoa Kỳ.
Những ai theo dõi chiến sự APH cũng đều nghĩ như vậy. Bây giờ, tình trạng phản phé của chính quyền Pakistan tại Islamabad mới được công khai hóa. Chúng ta cần xem lại lập trường của các phe trong cuộc, may ra thì suy đoán ra hậu quả của vụ WiliLeaks...
Muốn như vậy thì phải nhìn vào tấm lịch và tờ bản đồ... từ xa.
Trong chiến tranh Xô viết tại APH, từ 1979 đến 1989, Hoa Kỳ thời Jimmy Carter thực tế tham dự gián tiếp khi yểm trợ phong trào kháng chiến của các lực lượng Hồi giáo chống lại Hồng quân Liên Xô. Hậu cứ yểm trợ xuất phát từ Pakistan và đường dây tiếp vận là do mật vụ ISI lập ra. Từ phong trào Thánh chiến Jihad, sau này nhiều nhóm chuyển qua hoạt động khủng bố: Mỹ đã nuôi ong tay áo!
Sau khi Liên Xô tháo chạy, Hoa Kỳ dừng tay và bán cái chuyện APH cho Pakistan. Trong thời nội chiến hậu Xô-viết tại APH, Pakistan góp phần yểm trợ cho lực lượng Taliban qua đường dây ISI và sự bố trí của Tướng Hamid Gul, khi ấy đã rời ISI để khỏi mang tiếng! Mối quan hệ ấy nay vẫn còn sau khi Taliban chiếm chính quyền năm 1996 - nhờ Pakistan - rồi bị Hoa Kỳ đánh bật khỏi Kabul năm 2001, sau vụ khủng bố 9-11.
Nhìn từ quan điểm quyền lợi của Pakistan, APH có giá trị chiến lược vì nhiều lý do.
Đầu tiên là vì sắc dân Pashtun rất đông trên khu vực biên giới giữa hai nước. Thứ nữa là nếu APH có lực lượng chống Paksitan thì Islamabad lâm thế kẹt giữa sức ép ở miền Tây - từ APH - với mối đe dọa từ miền Đông - từ Ấn Độ. Vì vậy, Islamabad phải kiểm soát được tình hình APH và một chiến lược cho mục tiêu ấy là duy trì quan hệ "thân hữu" với Taliban đã được xây dựng và nuôi dưỡng từ xưa.


Nhìn từ Hoa Kỳ thì nhu cầu tiêu diệt khủng bố al-Qaeda sau vụ 9-1 khiến Mỹ phải đẩy Taliban ra khỏi chính quyền, nhưng không muốn và không thể tiêu diệt lực lượng này vì nó đòi hỏi một nỗ lực quân sự rất lớn. Việc đổ quân chiếm đóng APH là bất khả - cạn quân rồi - mà cũng chẳng là ưu tiên lớn vì al-Qaeda đã tản qua Pakistan và trải mỏng cơ sở tại Ethiopia, Yemen, Somalia... Vấn đề còn lại của Hoa Kỳ là... bảo vệ Pakistan khỏi tan rã và võ khí hạch tâm của xứ này khỏi rơi vào tay quân khủng bố.
Vì vậy, quan hệ giữa hai nước là một nghịch lý.
Pakistan bị sức ép và sự khuyến dụ - viện trợ - của Hoa Kỳ để thành đồng minh của Mỹ trên trận tuyến chống khủng bố toàn cầu, trước hết là tại APH. Islamabad cũng biết là Mỹ không thể tiêu diệt được Taliban và sớm muộn gì thì sẽ rút khỏi APH - Chính quyền Obama xác nhận điều ấy trong chiến lược mới, được Tổng thống Mỹ công bố hồi đầu tháng 12 năm ngoái. Nhưng lãnh đạo Islamabad cũng e ngại Hoa Kỳ sẽ yểm trợ Ấn Độ nếu họ không thỏa mãn yêu cầu của Mỹ.
Vì vậy, họ đi hai hàng. Vừa hợp tác về hình thức với Hoa Kỳ, vừa ngấm ngầm duy trì quan hệ tốt với Taliban và... chờ ngày Mỹ rút.
Lãnh đạo quân sự và chính trị Hoa Kỳ không thể không biết điều ấy từ lâu, chứ cũng chẳng chờ WikiLeaks tiết lộ. Khi đó, nếu không thể tiêu diệt Taliban thì sự chọn lựa của Mỹ là gì" Nếu cả APH và Pakistan đều bị đại loạn thì Hoa Kỳ và Ấn Độ có thể làm được gì" Giữa nguy cơ tan rã của APH và của Pakistan, nguy cơ nào là quan trọng hơn cho an ninh và quyền lợi Hoa Kỳ"
Chính là nghịch lý rất hợp lý ấy mới khiến hai "đồng minh" là Hoa Kỳ và Pakistan hợp tác theo kiểu kẻ cắp với bà già.
Hoa Kỳ chỉ cần xoá sạch hậu cứ al-Qaeda tại APH là có thể ra về, và cứ dùng dằng nửa ở nửa đi vì chưa dứt khoát được, trong khi cũng chẳng muốn một cường quốc khác - như Ấn Độ hay Trung Quốc - sẽ nhảy vào thế chỗ của Paskitan tại APH. Pakistan thì cười cười hợp tác nhằm bảo vệ biên giới miền Tây, nhưng chờ ngày Mỹ rút và Taliban quay về làm chủ tại APH. Trong khi chờ đợi thì họ đấm ngực thề thốt là không yểm trợ Taliban và biết rằng Hoa Kỳ cũng không tin.
Bây giờ WikiLeaks phanh phui ra sự thật mà mọi người trong cuộc đều biết nhưng cứ làm như không! Ngần ấy thủ đô tại Trung Á và Nam Á đều bị chấn động. Từ Kabul qua Islamabad tới New Delhi, lãnh đạo các nước phải làm bộ lên tiếng, phàn đối hay phủ nhận, v.v... Nhưng chuyện chính vẫn nằm tại Washington, thủ đô Hoa Kỳ.
Thực tế đã được phơi bày là: Hoa Kỳ không có ý chí quyết thắng tại APH, Chính quyền Obama chuẩn bị tháo chạy, trong khi Taliban vẫn có khả năng tồn tại và kiểm soát được một vùng lãnh thổ rộng lớn, bên cạnh một nước láng giềng đầy thân hữu và thiện chí chờ ngày Mỹ rút. Sự thật ấy khiến Chính quyền Obama hết chỗ chạy vì dư luận từ tả qua hữu, từ phản chiến tới bảo thủ về an ninh, đều nêu vấn đề và gây áp lực.
Và đẩy Hoa Kỳ tới quyết định triệt thoái còn sớm hơn dự tính.
Việc hơn 90 ngàn tài liệu được ai đó thu thập, chuyển hoá và phóng ra cho tổ chức phản chiến WikiLeaks là một nỗ lực công phu và có phối hợp. Chứ không thể là sáng kiến của một cá nhân, như anh binh nhất Bradley Manning 22 tuổi, đang bị điều tra. Hay anh Julian Assange, người Úc 39 tuổi đang trụ ở Thụy Điển và là sáng lập viên WikiLeaks. Nỗ lực có phối hợp ấy nhắm vào mục tiêu gì nếu không phải là thúc đẩy Hoa Kỳ sớm triệt thoái khỏi A Phú Hãn"
Mà ai là đạo diễn thật của đòn tác động tâm lý này"
WikiLeaks tiết lộ nhiều dữ kiện phương hại cho sự an toàn của binh lính Liên quân và dân APH, đấy là một vấn đề. Nhưng nếu việc tiết lộ này lại còn chuẩn bị cho Hoa Kỳ tháo chạy thì... chúng ta hết ý kiến. Kinh hãi và kinh tởm.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.