Hôm nay,  

Đức Đạt Lai Lạt Ma và Bắc Kinh

14/03/201100:00:00(Xem: 11807)
Đức Đạt Lai Lạt Ma và Bắc Kinh

Nguyễn Xuân Nghĩa

Khi đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố từ bỏ quyền lãnh đạo chính trị, vì sao Bắc Kinh nổi điên" 
Ngày 20 tháng Ba này, cộng đồng Tây Tạng trên thế giới sẽ bầu cử để chọn người lên làm Thủ tướng của Chính phủ Lưu vong Tây Tạng, có trụ sở tại thành phố Dharamsala miền cực Bắc Ấn Độ.
Đương kim Thủ tướng Lobsang Tenzin Samdhong Rinpoche - một vị cao tăng sinh năm 1939 mà cũng là một học giả có uy tín - sẽ nhường chức Kalon Tripa Chủ tịch Nội các cho một trong ba ứng cử viên: 1) Lobsang Sagay, một học giả tại Đại học Harvard; 2) Tenzin Namgyal "Tethong", một học giả trong Viện Nghiên cứu Tây Tạng của Đại học Stanford; 3) người thứ ba là Tashi Wangdi, Bộ trưởng trong Chính phủ đương nghiệm và cũng là đại diện của đức Đạt Lai Lạt Ma tại thủ đô của Liên hiệp Âu châu, thành phố Bruxelles.
Cuộc bầu cử rất đáng chú ý vì hôm 11 tháng Ba vừa qua, đức Đạt Lai Lạt Ma nhắc lại quyết định của ngài, là sẽ tự chấm dứt nhiệm vụ lãnh đạo chính trị. Ngài sẽ không làm Quốc trưởng Tây Tạng nữa. Và như vậy, Chính phủ Lưu vong cùng với Quốc hội Tây Tạng, do dân chúng bầu lên, sẽ là cơ chế lãnh đạo cộng đồng Tây Tạng ở trong và ngoài lãnh thổ Tây Tạng.
Trong khi đương kim Thủ tướng Samdhong Rinpoche còn khẩn nài đức Đạt Lai Lạt Ma xét lại quyết định này thì Bắc Kinh cũng đã có phản ứng gay gắt, với ngôn từ vô lễ như mọi khi: "đức Đạt Lai Lạt Ma là "con sói đội lốt thầy tu" có ý đồ đánh lừa dư luận thế giới", v.v..."
Vì sao lại như vậy" Chúng ta rất nên theo dõi việc này....
***
Theo truyền thống đã có từ hơn sáu trăm năm, Phật tử Tây Tạng tin rằng đức Đạt Lai Lạt Ma là một hóa thân của Quán Tự tại Bồ tát mà chúng ta vẫn gọi là Quán Thế Âm.
Vị Đạt Lai Lạt Ma Tenzin Gyastso ngày nay là hóa thân thứ 14 của một chuỗi dài các Đạt Lai Lạt Ma trong lịch sử Tây Tạng. Trong số này, cũng có người sinh ra tại Mông Cổ. Dân Tây Tạng nói chung coi đức Đạt Lai Lạt Ma là vị lãnh đạo Phật giáo đồng thời cũng là vị Quốc trưởng lãnh đạo quốc gia.
Sau khi chiếm đóng một phần miền Đông của lãnh thổ Tây Tạng từ năm 1950, Trung Quốc đã tấn công phần đất còn lại vào năm 1959. Đợt tấn công đó dẫn đến cuộc tổng nổi dậy của dân Tây Tạng tại Thủ đô Lhasa vào ngày 10 Tháng Ba năm 1959. Một tuần sau, đức Đạt Lai Lạt Ma phải trốn khỏi Lhasa ngày 17 và sống lưu vong tại Ấn Độ từ đó cho đến nay, trong khi Tây Tạng trở thành một đặc khu hành chánh, "khu tự trị Tây Tạng" của Trung Quốc và những phần đất bị chiếm đóng trước đó thì bị sát nhập vào các tỉnh Thanh Hải hay Cam Túc. Dân Tây Tạng ở tại chỗ, chỉ còn sáu triệu, bị đồng hóa dần trong cộng đồng người Hán được di chuyển vào khu vực này ngày một đông hơn.
Ở bên ngoài, Đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn là lãnh đạo tôn giáo và chính trị, đồng thời là vị cao tăng đã quảng bá Phật pháp ra toàn thế giới, với ảnh hưởng mở rộng chưa từng thấy trong lịch sử Phật giáo nhờ nhân cách và trí tuệ đặc biệt của ngài.
Từ cõi lưu vong, năm 1963, đức Đạt Lai Lạt Ma cho ban hành một bản hiến pháp mới để tổ chức bầu cử ra một Quốc hội và Nội các đại diện cho cộng đồng Tây Tạng lưu vong. Với tư thế Quốc trưởng và lãnh đạo tôn giáo, ngài vẫn được coi là người lãnh đạo toàn dân Tây Tạng ở trong và ngoài nước. Sau đó, từ năm 1969, ngài còn nói đến ý nguyện là tự chấm dứt vai trò chính trị để dân Tây Tạng đề cử lãnh đạo theo nguyên tắc dân chủ như các quốc gia tân tiến khác: ngài muốn hiện đại hoá Tây Tạng như hiện đại hóa Phật giáo.
Thế rồi, hơn hai chục năm trước, năm 1988, đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra chủ trương là yêu cầu Trung Quốc tôn trọng quyền tự trị của dân Tây Tạng và kêu gọi thế giới hãy cứu lấy tôn giáo và văn hoá Tây Tạng. Nghĩa là một nhượng bộ rất lớn khi chấp nhận Tây Tạng là một phần của lãnh thổ Trung Quốc. Ngài chỉ xin quyền tự trị và kêu gọi đấu tranh bất bạo động cho quyền tự trị ấy để tránh một vụ diệt chủng văn hoá và tôn giáo Tây Tạng. Gần đây, qua nhiều lần khác nhau, ngài còn tuyên bố bốn ý nguyện khác.
Thứ nhất sẽ từ bỏ vai trò lãnh đạo chính trị, chuyển quyền cho Quốc hội và Nội các Tây Tạng do dân chúng bầu lên. Thứ hai, còn từ bỏ vai trò lãnh đạo tôn giáo để chỉ còn là một nhà sư, như ngài thường nói và viết trong các thông điệp của mình. Thứ ba, trước khi viên tịch, ngài sẽ yêu cầu nhân dân Tây Tạng ở trong và ngoài nước cùng cho biết ý kiến về thủ tục xác định người sẽ lãnh đạo Phật giáo. Tức là dù đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 còn tại thế, một vị cao tăng khác sẽ thay thế ngài. Sinh vào tháng Sáu năm 1935, đức Đạt Lai Lạt Ma nay đã gần 76 tuổi và với thể lực hiện nay, nhiều người, kể cả các bác sĩ, tin là ngài sẽ sống thọ hơn 90 tuổi. Thứ tư, khi viên tịch, ngài sẽ đầu thai ở bên ngoài lãnh thổ Tây Tạng để tiếp tục hoằng pháp trên thế giới.
Tuần qua, trong lễ kỷ niệm ngày khởi nghĩa của dân Tây Tạng tại Lhasa năm 1959, đức Đạt Lai Lạt Ma đọc bài diễn văn hôm 11 tháng Ba nhắc lại quyết định của mình là từ bỏ nhiệm vụ lãnh đạo chính trị khiến Bắc Kinh nổi điên!
Mà vì sao Bắc Kinh lại nổi điên"
***
Câu chuyện này ly kỳ ở cả hai khía cạnh tôn giáo và chính trị và ta chỉ có thể hiểu ra khi nhớ lại những ước nguyện của đức Đạt Lai Lạt Ma vừa được nhắc lại ở trên.
Nói về bối cảnh, chúng ta đều có thể thấy vai trò và ảnh hưởng của đức Đạt Lai Lạt Ma hiện nay. Vai trò đó chi phối đối sách của Bắc Kinh với hồ sơ Tây Tạng - trước sự chứng kiến của cộng đồng thế giới. Lãnh đạo Bắc Kinh cho rằng sự hiện hữu của đức Đạt Lai Lạt Ma là một trở ngại vì ảnh hưởng quá lớn của ngài đối với dân Tây Tạng và cộng đồng thế giới.
Với tư cách một nhà sư đức độ và trí tuệ - chưa nói gì đến uy tín của Giải Nobel Hoà Bình năm 1989 - ngài có thể diện kiến lãnh đạo của nhiều quốc gia và gây phiền nhiễu không ít cho Bắc Kinh. Nhiều Tổng thống hay Thủ tướng của thế giới rất khó từ chối gặp đức Đạt Lai Lạt Ma dù có bị áp lực về ngoại giao hay kinh tế của Bắc Kinh.
Một khi đức Đạt Lai Lạt Ma viên tịch thì Trung Quốc có thể hoàn tất việc thôn tính Tây Tạng mà chẳng còn ai nhắc tới. Cái khó là sự ngưỡng mộ mà dân Tây Tạng trong lãnh thổ Trung Quốc dành cho đức Đạt Lai Lạt Ma thì Bắc Kinh sẽ giải quyết lấy, nhờ chánh sách đàn áp và đồng hóa của mình.
Bây giờ, đức Đạt Lai Lạt Ma lại chậm rãi trao ấn tín Quốc trưởng cho một cơ chế chính trị do dân Tây Tạng lưu vong bầu lên!
Việc ấy có hàm ý định chế hóa một hệ thống quyền lực nằm bên ngoài khả năng kiểm soát của Bắc Kinh. Với đức Đạt Lai Lạt Ma còn tại thế, chính quyền mới sẽ có thời gian và điều kiện xây dựng ảnh hưởng. Và tránh được một khoảng trống về quyền lực mà Bắc Kinh có thể khai thác, thí dụ như gây phân hoá giữa các xu hướng ôn hoà hay cực đoan trong cộng đồng Tây Tạng.
Hãy nhìn vào ba ứng cử viên có thể là Thủ tướng Tây Tạng lưu vong: họ là học giả uyên bác ở tuổi bốn chục tại hai đại học lớn của Hoa Kỳ, hoặc là người có quan hệ mở rộng với thế giới bên ngoài, nên có thể là những khuôn mặt đại diện có uy tín cho cộng đồng Tây Tạng.
Trong cộng đồng này, một thế hệ trẻ đã xuất hiện. Dù rất kính trọng đức Đạt Lai Lạt Ma, nhiều người thầm nghĩ rằng con đường "trung đạo" của ngài - là không đòi độc lập mà chỉ xin tự trị - có khi không dẫn đến thành công. Cuộc tranh luận sẽ xảy ra ngay trong Quốc hội khi đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn còn đó và còn có khả năng hoà giải trước khi Bắc Kinh có thể nhúng tay lũng đoạn.

Vì thế Bắc Kinh mới nổi điên và chửi rủa om xòm!
Chuyện ly kỳ khác là ai sẽ thay thế đức Đạt Lai Lạt Ma để lãnh đạo Phật giáo Tây Tạng"
***
Năm 2008, sau khi đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố sẽ tu chính thủ tục đề cử vị lãnh đạo tinh thần và bản thân mình thì sẽ hóa thân bên ngoài lãnh thổ Tây Tạng, Bắc Kinh đã ra quyết định vào tháng Chín là Tây Tạng phải tôn trọng truyền thống... Phật giáo trong cách đề cử lãnh đạo tôn giáo. Và Bắc Kinh mới có quyền xác định ai là đức Đạt Lai Lạt Ma.
Diễn giải cho rõ, một chế độ vô thần đòi Phật giáo Tây Tạng phải tôn trọng truyền thống Phật giáo! Nghĩa là không cho phép dân Tây Tạng hay đức Đạt Lai Lạt Ma sửa đổi quy cách đề cử nằm ngoài khả năng kiểm soát của chế độ. Và riêng bản thân đức Đạt Lai Lạt Ma không có quyền... đổi hộ khẩu từ kiếp này qua kiếp khác, sang một nơi chốn mà Bắc Kinh vươn không tới!
Chuyện đấu trí giữa Phật pháp và Bắc Kinh có thể được thấy trước đó.
Năm 1989, đức Ban Thiền Lạt Ma đời thứ 10 tên là Lobsang Trinley Lhundrub Chokyi Gyaltsen - nhân vật số hai của Tây Tạng - viên tịch tại Tây Tạng trong lãnh thổ Trung Quốc. Dưới sự lãnh đạo và xác định của đức Đạt Lai Lạt Ma, chư tăng Tây Tạng tìm ra hóa thân của đức Ban Thiền là Gedhun Choekyi Nyima, một cậu bé sinh năm 1989 tại Tây Tạng. Năm 1995, Bắc Kinh bắt cóc cậu bé này - và ngày nay còn giấu ở đâu hay đã thủ tiêu thì không ai biết - rồi chỉ định một cậu bé khác, sinh năm 1990, là đức Ban Thiền đời thứ 11. Nay là một đại biểu trong Hội nghị Hiệp thương Chính trị, cơ chế bình phong của Trung Quốc!
Đã nắm trong tay nhân vật số hai Bắc Kinh chờ đợi là sẽ khống chế luôn nhân vật số một.
Khi đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố tu chính lại thể thức tuyển chọn người lãnh đạo Phật giáo Tây Tạng thì cái lưới của Bắc Kinh sẽ là lưới rách.
Người lãnh đạo ấy có thể là một trong các vị cao tăng trong hệ thống Phật giáo Tây Tạng ở bên ngoài Bắc Kinh và bên cạnh đức Đạt Lai Lạt Ma. Xin đừng tò mò tìm hiểu là ai vì Bắc Kinh cũng muốn biết điều ấy. Và có thể dùng độc kế hãm hại, như đã từng làm năm 1997 khi ám sát một vị cao tăng uyên bác của Tây Tạng ngay tại Dharamsala là Lobsang Gyatso, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biện chứng Phật giáo.
Thứ nữa, khi đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố là mình sẽ đầu thai ra ngoài lãnh thổ Tây Tạng, Bắc Kinh cũng mất luôn cơ hội tái diễn thủ đoạn Ban Thiền giả. Hãy nghĩ đến ngày xuất hiện vị Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 15 sau này - bên ngoài lãnh thổ Trung Quốc! Ngày ấy, phản ứng đón nhận đầy tôn kính của cộng đồng Phật giáo trên toàn thế giới sẽ khiến Bắc Kinh lúng túng!
Quyết định hồi tháng Chín năm 2008 cho phép Bắc Kinh xác định những ai mới được là mục sư, linh mục hay cao tăng Tây Tạng tại Trung Quốc. Đó là đòn phép hành chánh và chính trị của Thiên triều Trung Quốc. Nhưng làm sao Bắc Kinh có thể chọn... Đức Giáo hoàng của Giáo hội Công giáo Hoàn vũ, và từ nay không thể chọn ai là Đạt Lai Lạt Ma của Phật giáo Tây Tạng!
Vì vậy, ta càng hiểu ra vì sao Bắc Kinh nổi điên và chửi đức Đạt Lai Lạt Ma là "con sói đội lốt nhà tu", một thậm từ... thiếu sáng tạo vì học từ Âu Châu thời Trung cổ! Chúng ta nhìn ra trận đấu pháp giữa Ma vương và Bồ Tát....
Giờ đây chuyện sẽ ra sao"
***
Trong tầng lớp trí thức của Trung Quốc đã thấy xuất hiện một tầng lớp mới, có chủ trương ôn hoà và thực tiễn hơn về tôn giáo và chính trị đối với Tây Tạng: sự thật bên dưới là ngày càng có nhiều người Trung Quốc tìm đến và tin vào Phật giáo.
Trong thành phần này, một số học giả Trung Quốc đã bày tỏ ý kiến là Bắc Kinh nên trực tiếp nói chuyện với đức Đạt Lai Lạt Ma khi ngài còn tại thế để tìm giải pháp ổn thỏa và hòa bình. Là một quy chế tự trị đích thực cho Tây Tạng, nơi mà đức Đạt Lai Lạt Ma có thể trở về như một nhà sư.
Nhưng nhiều người lại cho rằng nhượng bộ như vậy càng khiến dân Tây Tạng đòi tiếp quyền độc lập đã bị tước đoạt từ năm 1959.
Giới lãnh đạo Trung Quốc biết rằng xưa kia Tây Tạng - hay Việt Nam, Cao Ly - đều là các quốc gia độc lập, và quy chế gọi là "chư hầu" hay thủ tục tấn phong cho Trung Quốc chấp nhận cho các Quốc vương hay Hoàng đế chư hầu chỉ là hình thức. Trung Quốc có thể lừa được Âu Châu và thế giới sau này về chủ quyền giả tạo của mình trên các nước chư hầu đó, chứ tình thực thì không phải như vậy.
Huống hồ thế giới ngày nay đã đổi khác.
Khi Bắc Kinh chấp nhận cho Tây Tạng được tự trị, bên trong có thể lại tạo cơ hội cho phong trào độc lập của dân Tây Tạng và của nhiều sắc tộc khác ngay trong lãnh thổ Trung Quốc, từ Tân Cương lên tới Nội Mông. Sáu triệu người Tây Tạng là thiểu số thứ 10 trong số 55 sắc dân thiểu số khác, nhưng có ảnh hưởng mạnh hơn dân số vì uy tín quá lớn của đức Đạt Lai Lạt Ma. Kế tiếp, sắc tộc Duy Ngô Nhĩ (Uighurs) tại Tân Cương còn có hậu thuẫn của cả cộng đồng Hồi giáo tại Trung Á và nhiều nơi khác. Mà bên kia Nội Mông là Ngoại Mông, là Cộng hoà Mông Cổ thì nay đã là một quốc gia dân chủ, nơi mà người Mông Cổ đã thấy cuộc sống được cải thiện trong thực tế so với thời Xô viết làm dân Mông Cổ tại Trung Quốc thấy thèm thuồng. Ngần ấy vùng trái độn quân sự của Trung Quốc truyền thống đều có thể lung lay rung chuyển nên Bắc Kinh rất sợ.
Bên ngoài, Bắc Kinh còn lúng túng hơn với các nước khi thế giới thấy rõ khả năng trực trị rất kém và rất tồi tệ của Trung Quốc.
Mà nói về ngoại giao, Chính phủ Lưu vong Tây Tạng lại nằm tại Ấn Độ, một quốc gia đang xem Trung Quốc là mối nguy cần đối phó và trong mục tiêu đó đang liên kết với Nhật Bản và Hoa Kỳ. Ngoài Ấn Độ, Hoa Kỳ cũng đang canh chừng Trung Quốc, và xưa kia đã từng yểm trợ các lực lương kháng chiến Tây Tạng. Ngày nay, ứng cử viên cử nhiều hy vọng trở thành Thủ tướng Tây Tạng lưu vong lại là một học giả của Đại học Harvard ở bên Mỹ! Bảo ông ta là con sói hay đặc công khủng bố thì mấy ai tin"
Đâm ra, nhìn từ quan điểm bảo thủ và sợ sệt của Bắc Kinh, giải pháp ôn hoà của đức Đạt Lai Lạt Ma - mà nhiều người bên trong cũng đồng ý - vẫn là giải pháp có quá nhiều rủi ro!
Mà chối từ giải pháp này thì có khi lại gặp một rủi ro còn lớn hơn: quá phẫn uất, dân Tây Tạng sẽ từ bỏ chủ trương đấu tranh bất bạo động! Xưa kia, dân tộc Tây Tạng rất thiện chiến và xứ Tây Tạng đã từng là một đế quốc quân sự nhiều lần tấn công thẳng vảo kinh đô Trường An của nhà Đại Đường....
Bây giờ hoặc sau này mà có vu cáo những người đấu tranh Tây Tạng là quân khủng bố thì cũng chẳng giải quyết được nhiều bất ổn bên trong, khi lãnh đạo Trung Quốc đang phải chuyển hướng kinh tế vào một khúc quanh có quá nhiều rủi ro. Chưa nói gì đến hiệu ứng của "Mạt Lợi Hoa Cách Mạng" từ Trung Đông dội vào!
Trong khi chờ đợi, cứ vào tháng Ba mùa Xuân là Bắc Kinh lại sợ dân Tây Tạng kỷ niệm vụ khởi nghĩa năm 1959 bằng những cuộc xuống đường biểu tình. Lần nóng nhất là vào năm 2008, khi Trung Quốc chuẩn bị Thế vận hội Bắc Kinh khiến cây đuốc thế vận bị rượt đuổi khắp nơi trên thế giới.
Biết đâu chừng, các Ma vương lãnh đạo Thiên triều đang thầm mong là đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ sống rất thọ, trong khi họ tìm ra một giải pháp an toàn hơn!

Ý kiến bạn đọc
14/03/201113:32:54
Khách
không gõ được tiếng việt ở đay
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.