Hôm nay,  

Đức Đạt Lai Lạt Ma và Bắc Kinh

3/14/201100:00:00(View: 11867)
Đức Đạt Lai Lạt Ma và Bắc Kinh

Nguyễn Xuân Nghĩa

Khi đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố từ bỏ quyền lãnh đạo chính trị, vì sao Bắc Kinh nổi điên" 
Ngày 20 tháng Ba này, cộng đồng Tây Tạng trên thế giới sẽ bầu cử để chọn người lên làm Thủ tướng của Chính phủ Lưu vong Tây Tạng, có trụ sở tại thành phố Dharamsala miền cực Bắc Ấn Độ.
Đương kim Thủ tướng Lobsang Tenzin Samdhong Rinpoche - một vị cao tăng sinh năm 1939 mà cũng là một học giả có uy tín - sẽ nhường chức Kalon Tripa Chủ tịch Nội các cho một trong ba ứng cử viên: 1) Lobsang Sagay, một học giả tại Đại học Harvard; 2) Tenzin Namgyal "Tethong", một học giả trong Viện Nghiên cứu Tây Tạng của Đại học Stanford; 3) người thứ ba là Tashi Wangdi, Bộ trưởng trong Chính phủ đương nghiệm và cũng là đại diện của đức Đạt Lai Lạt Ma tại thủ đô của Liên hiệp Âu châu, thành phố Bruxelles.
Cuộc bầu cử rất đáng chú ý vì hôm 11 tháng Ba vừa qua, đức Đạt Lai Lạt Ma nhắc lại quyết định của ngài, là sẽ tự chấm dứt nhiệm vụ lãnh đạo chính trị. Ngài sẽ không làm Quốc trưởng Tây Tạng nữa. Và như vậy, Chính phủ Lưu vong cùng với Quốc hội Tây Tạng, do dân chúng bầu lên, sẽ là cơ chế lãnh đạo cộng đồng Tây Tạng ở trong và ngoài lãnh thổ Tây Tạng.
Trong khi đương kim Thủ tướng Samdhong Rinpoche còn khẩn nài đức Đạt Lai Lạt Ma xét lại quyết định này thì Bắc Kinh cũng đã có phản ứng gay gắt, với ngôn từ vô lễ như mọi khi: "đức Đạt Lai Lạt Ma là "con sói đội lốt thầy tu" có ý đồ đánh lừa dư luận thế giới", v.v..."
Vì sao lại như vậy" Chúng ta rất nên theo dõi việc này....
***
Theo truyền thống đã có từ hơn sáu trăm năm, Phật tử Tây Tạng tin rằng đức Đạt Lai Lạt Ma là một hóa thân của Quán Tự tại Bồ tát mà chúng ta vẫn gọi là Quán Thế Âm.
Vị Đạt Lai Lạt Ma Tenzin Gyastso ngày nay là hóa thân thứ 14 của một chuỗi dài các Đạt Lai Lạt Ma trong lịch sử Tây Tạng. Trong số này, cũng có người sinh ra tại Mông Cổ. Dân Tây Tạng nói chung coi đức Đạt Lai Lạt Ma là vị lãnh đạo Phật giáo đồng thời cũng là vị Quốc trưởng lãnh đạo quốc gia.
Sau khi chiếm đóng một phần miền Đông của lãnh thổ Tây Tạng từ năm 1950, Trung Quốc đã tấn công phần đất còn lại vào năm 1959. Đợt tấn công đó dẫn đến cuộc tổng nổi dậy của dân Tây Tạng tại Thủ đô Lhasa vào ngày 10 Tháng Ba năm 1959. Một tuần sau, đức Đạt Lai Lạt Ma phải trốn khỏi Lhasa ngày 17 và sống lưu vong tại Ấn Độ từ đó cho đến nay, trong khi Tây Tạng trở thành một đặc khu hành chánh, "khu tự trị Tây Tạng" của Trung Quốc và những phần đất bị chiếm đóng trước đó thì bị sát nhập vào các tỉnh Thanh Hải hay Cam Túc. Dân Tây Tạng ở tại chỗ, chỉ còn sáu triệu, bị đồng hóa dần trong cộng đồng người Hán được di chuyển vào khu vực này ngày một đông hơn.
Ở bên ngoài, Đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn là lãnh đạo tôn giáo và chính trị, đồng thời là vị cao tăng đã quảng bá Phật pháp ra toàn thế giới, với ảnh hưởng mở rộng chưa từng thấy trong lịch sử Phật giáo nhờ nhân cách và trí tuệ đặc biệt của ngài.
Từ cõi lưu vong, năm 1963, đức Đạt Lai Lạt Ma cho ban hành một bản hiến pháp mới để tổ chức bầu cử ra một Quốc hội và Nội các đại diện cho cộng đồng Tây Tạng lưu vong. Với tư thế Quốc trưởng và lãnh đạo tôn giáo, ngài vẫn được coi là người lãnh đạo toàn dân Tây Tạng ở trong và ngoài nước. Sau đó, từ năm 1969, ngài còn nói đến ý nguyện là tự chấm dứt vai trò chính trị để dân Tây Tạng đề cử lãnh đạo theo nguyên tắc dân chủ như các quốc gia tân tiến khác: ngài muốn hiện đại hoá Tây Tạng như hiện đại hóa Phật giáo.
Thế rồi, hơn hai chục năm trước, năm 1988, đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra chủ trương là yêu cầu Trung Quốc tôn trọng quyền tự trị của dân Tây Tạng và kêu gọi thế giới hãy cứu lấy tôn giáo và văn hoá Tây Tạng. Nghĩa là một nhượng bộ rất lớn khi chấp nhận Tây Tạng là một phần của lãnh thổ Trung Quốc. Ngài chỉ xin quyền tự trị và kêu gọi đấu tranh bất bạo động cho quyền tự trị ấy để tránh một vụ diệt chủng văn hoá và tôn giáo Tây Tạng. Gần đây, qua nhiều lần khác nhau, ngài còn tuyên bố bốn ý nguyện khác.
Thứ nhất sẽ từ bỏ vai trò lãnh đạo chính trị, chuyển quyền cho Quốc hội và Nội các Tây Tạng do dân chúng bầu lên. Thứ hai, còn từ bỏ vai trò lãnh đạo tôn giáo để chỉ còn là một nhà sư, như ngài thường nói và viết trong các thông điệp của mình. Thứ ba, trước khi viên tịch, ngài sẽ yêu cầu nhân dân Tây Tạng ở trong và ngoài nước cùng cho biết ý kiến về thủ tục xác định người sẽ lãnh đạo Phật giáo. Tức là dù đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 còn tại thế, một vị cao tăng khác sẽ thay thế ngài. Sinh vào tháng Sáu năm 1935, đức Đạt Lai Lạt Ma nay đã gần 76 tuổi và với thể lực hiện nay, nhiều người, kể cả các bác sĩ, tin là ngài sẽ sống thọ hơn 90 tuổi. Thứ tư, khi viên tịch, ngài sẽ đầu thai ở bên ngoài lãnh thổ Tây Tạng để tiếp tục hoằng pháp trên thế giới.
Tuần qua, trong lễ kỷ niệm ngày khởi nghĩa của dân Tây Tạng tại Lhasa năm 1959, đức Đạt Lai Lạt Ma đọc bài diễn văn hôm 11 tháng Ba nhắc lại quyết định của mình là từ bỏ nhiệm vụ lãnh đạo chính trị khiến Bắc Kinh nổi điên!
Mà vì sao Bắc Kinh lại nổi điên"
***
Câu chuyện này ly kỳ ở cả hai khía cạnh tôn giáo và chính trị và ta chỉ có thể hiểu ra khi nhớ lại những ước nguyện của đức Đạt Lai Lạt Ma vừa được nhắc lại ở trên.
Nói về bối cảnh, chúng ta đều có thể thấy vai trò và ảnh hưởng của đức Đạt Lai Lạt Ma hiện nay. Vai trò đó chi phối đối sách của Bắc Kinh với hồ sơ Tây Tạng - trước sự chứng kiến của cộng đồng thế giới. Lãnh đạo Bắc Kinh cho rằng sự hiện hữu của đức Đạt Lai Lạt Ma là một trở ngại vì ảnh hưởng quá lớn của ngài đối với dân Tây Tạng và cộng đồng thế giới.
Với tư cách một nhà sư đức độ và trí tuệ - chưa nói gì đến uy tín của Giải Nobel Hoà Bình năm 1989 - ngài có thể diện kiến lãnh đạo của nhiều quốc gia và gây phiền nhiễu không ít cho Bắc Kinh. Nhiều Tổng thống hay Thủ tướng của thế giới rất khó từ chối gặp đức Đạt Lai Lạt Ma dù có bị áp lực về ngoại giao hay kinh tế của Bắc Kinh.
Một khi đức Đạt Lai Lạt Ma viên tịch thì Trung Quốc có thể hoàn tất việc thôn tính Tây Tạng mà chẳng còn ai nhắc tới. Cái khó là sự ngưỡng mộ mà dân Tây Tạng trong lãnh thổ Trung Quốc dành cho đức Đạt Lai Lạt Ma thì Bắc Kinh sẽ giải quyết lấy, nhờ chánh sách đàn áp và đồng hóa của mình.
Bây giờ, đức Đạt Lai Lạt Ma lại chậm rãi trao ấn tín Quốc trưởng cho một cơ chế chính trị do dân Tây Tạng lưu vong bầu lên!
Việc ấy có hàm ý định chế hóa một hệ thống quyền lực nằm bên ngoài khả năng kiểm soát của Bắc Kinh. Với đức Đạt Lai Lạt Ma còn tại thế, chính quyền mới sẽ có thời gian và điều kiện xây dựng ảnh hưởng. Và tránh được một khoảng trống về quyền lực mà Bắc Kinh có thể khai thác, thí dụ như gây phân hoá giữa các xu hướng ôn hoà hay cực đoan trong cộng đồng Tây Tạng.
Hãy nhìn vào ba ứng cử viên có thể là Thủ tướng Tây Tạng lưu vong: họ là học giả uyên bác ở tuổi bốn chục tại hai đại học lớn của Hoa Kỳ, hoặc là người có quan hệ mở rộng với thế giới bên ngoài, nên có thể là những khuôn mặt đại diện có uy tín cho cộng đồng Tây Tạng.
Trong cộng đồng này, một thế hệ trẻ đã xuất hiện. Dù rất kính trọng đức Đạt Lai Lạt Ma, nhiều người thầm nghĩ rằng con đường "trung đạo" của ngài - là không đòi độc lập mà chỉ xin tự trị - có khi không dẫn đến thành công. Cuộc tranh luận sẽ xảy ra ngay trong Quốc hội khi đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn còn đó và còn có khả năng hoà giải trước khi Bắc Kinh có thể nhúng tay lũng đoạn.

Vì thế Bắc Kinh mới nổi điên và chửi rủa om xòm!
Chuyện ly kỳ khác là ai sẽ thay thế đức Đạt Lai Lạt Ma để lãnh đạo Phật giáo Tây Tạng"
***
Năm 2008, sau khi đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố sẽ tu chính thủ tục đề cử vị lãnh đạo tinh thần và bản thân mình thì sẽ hóa thân bên ngoài lãnh thổ Tây Tạng, Bắc Kinh đã ra quyết định vào tháng Chín là Tây Tạng phải tôn trọng truyền thống... Phật giáo trong cách đề cử lãnh đạo tôn giáo. Và Bắc Kinh mới có quyền xác định ai là đức Đạt Lai Lạt Ma.
Diễn giải cho rõ, một chế độ vô thần đòi Phật giáo Tây Tạng phải tôn trọng truyền thống Phật giáo! Nghĩa là không cho phép dân Tây Tạng hay đức Đạt Lai Lạt Ma sửa đổi quy cách đề cử nằm ngoài khả năng kiểm soát của chế độ. Và riêng bản thân đức Đạt Lai Lạt Ma không có quyền... đổi hộ khẩu từ kiếp này qua kiếp khác, sang một nơi chốn mà Bắc Kinh vươn không tới!
Chuyện đấu trí giữa Phật pháp và Bắc Kinh có thể được thấy trước đó.
Năm 1989, đức Ban Thiền Lạt Ma đời thứ 10 tên là Lobsang Trinley Lhundrub Chokyi Gyaltsen - nhân vật số hai của Tây Tạng - viên tịch tại Tây Tạng trong lãnh thổ Trung Quốc. Dưới sự lãnh đạo và xác định của đức Đạt Lai Lạt Ma, chư tăng Tây Tạng tìm ra hóa thân của đức Ban Thiền là Gedhun Choekyi Nyima, một cậu bé sinh năm 1989 tại Tây Tạng. Năm 1995, Bắc Kinh bắt cóc cậu bé này - và ngày nay còn giấu ở đâu hay đã thủ tiêu thì không ai biết - rồi chỉ định một cậu bé khác, sinh năm 1990, là đức Ban Thiền đời thứ 11. Nay là một đại biểu trong Hội nghị Hiệp thương Chính trị, cơ chế bình phong của Trung Quốc!
Đã nắm trong tay nhân vật số hai Bắc Kinh chờ đợi là sẽ khống chế luôn nhân vật số một.
Khi đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố tu chính lại thể thức tuyển chọn người lãnh đạo Phật giáo Tây Tạng thì cái lưới của Bắc Kinh sẽ là lưới rách.
Người lãnh đạo ấy có thể là một trong các vị cao tăng trong hệ thống Phật giáo Tây Tạng ở bên ngoài Bắc Kinh và bên cạnh đức Đạt Lai Lạt Ma. Xin đừng tò mò tìm hiểu là ai vì Bắc Kinh cũng muốn biết điều ấy. Và có thể dùng độc kế hãm hại, như đã từng làm năm 1997 khi ám sát một vị cao tăng uyên bác của Tây Tạng ngay tại Dharamsala là Lobsang Gyatso, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biện chứng Phật giáo.
Thứ nữa, khi đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố là mình sẽ đầu thai ra ngoài lãnh thổ Tây Tạng, Bắc Kinh cũng mất luôn cơ hội tái diễn thủ đoạn Ban Thiền giả. Hãy nghĩ đến ngày xuất hiện vị Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 15 sau này - bên ngoài lãnh thổ Trung Quốc! Ngày ấy, phản ứng đón nhận đầy tôn kính của cộng đồng Phật giáo trên toàn thế giới sẽ khiến Bắc Kinh lúng túng!
Quyết định hồi tháng Chín năm 2008 cho phép Bắc Kinh xác định những ai mới được là mục sư, linh mục hay cao tăng Tây Tạng tại Trung Quốc. Đó là đòn phép hành chánh và chính trị của Thiên triều Trung Quốc. Nhưng làm sao Bắc Kinh có thể chọn... Đức Giáo hoàng của Giáo hội Công giáo Hoàn vũ, và từ nay không thể chọn ai là Đạt Lai Lạt Ma của Phật giáo Tây Tạng!
Vì vậy, ta càng hiểu ra vì sao Bắc Kinh nổi điên và chửi đức Đạt Lai Lạt Ma là "con sói đội lốt nhà tu", một thậm từ... thiếu sáng tạo vì học từ Âu Châu thời Trung cổ! Chúng ta nhìn ra trận đấu pháp giữa Ma vương và Bồ Tát....
Giờ đây chuyện sẽ ra sao"
***
Trong tầng lớp trí thức của Trung Quốc đã thấy xuất hiện một tầng lớp mới, có chủ trương ôn hoà và thực tiễn hơn về tôn giáo và chính trị đối với Tây Tạng: sự thật bên dưới là ngày càng có nhiều người Trung Quốc tìm đến và tin vào Phật giáo.
Trong thành phần này, một số học giả Trung Quốc đã bày tỏ ý kiến là Bắc Kinh nên trực tiếp nói chuyện với đức Đạt Lai Lạt Ma khi ngài còn tại thế để tìm giải pháp ổn thỏa và hòa bình. Là một quy chế tự trị đích thực cho Tây Tạng, nơi mà đức Đạt Lai Lạt Ma có thể trở về như một nhà sư.
Nhưng nhiều người lại cho rằng nhượng bộ như vậy càng khiến dân Tây Tạng đòi tiếp quyền độc lập đã bị tước đoạt từ năm 1959.
Giới lãnh đạo Trung Quốc biết rằng xưa kia Tây Tạng - hay Việt Nam, Cao Ly - đều là các quốc gia độc lập, và quy chế gọi là "chư hầu" hay thủ tục tấn phong cho Trung Quốc chấp nhận cho các Quốc vương hay Hoàng đế chư hầu chỉ là hình thức. Trung Quốc có thể lừa được Âu Châu và thế giới sau này về chủ quyền giả tạo của mình trên các nước chư hầu đó, chứ tình thực thì không phải như vậy.
Huống hồ thế giới ngày nay đã đổi khác.
Khi Bắc Kinh chấp nhận cho Tây Tạng được tự trị, bên trong có thể lại tạo cơ hội cho phong trào độc lập của dân Tây Tạng và của nhiều sắc tộc khác ngay trong lãnh thổ Trung Quốc, từ Tân Cương lên tới Nội Mông. Sáu triệu người Tây Tạng là thiểu số thứ 10 trong số 55 sắc dân thiểu số khác, nhưng có ảnh hưởng mạnh hơn dân số vì uy tín quá lớn của đức Đạt Lai Lạt Ma. Kế tiếp, sắc tộc Duy Ngô Nhĩ (Uighurs) tại Tân Cương còn có hậu thuẫn của cả cộng đồng Hồi giáo tại Trung Á và nhiều nơi khác. Mà bên kia Nội Mông là Ngoại Mông, là Cộng hoà Mông Cổ thì nay đã là một quốc gia dân chủ, nơi mà người Mông Cổ đã thấy cuộc sống được cải thiện trong thực tế so với thời Xô viết làm dân Mông Cổ tại Trung Quốc thấy thèm thuồng. Ngần ấy vùng trái độn quân sự của Trung Quốc truyền thống đều có thể lung lay rung chuyển nên Bắc Kinh rất sợ.
Bên ngoài, Bắc Kinh còn lúng túng hơn với các nước khi thế giới thấy rõ khả năng trực trị rất kém và rất tồi tệ của Trung Quốc.
Mà nói về ngoại giao, Chính phủ Lưu vong Tây Tạng lại nằm tại Ấn Độ, một quốc gia đang xem Trung Quốc là mối nguy cần đối phó và trong mục tiêu đó đang liên kết với Nhật Bản và Hoa Kỳ. Ngoài Ấn Độ, Hoa Kỳ cũng đang canh chừng Trung Quốc, và xưa kia đã từng yểm trợ các lực lương kháng chiến Tây Tạng. Ngày nay, ứng cử viên cử nhiều hy vọng trở thành Thủ tướng Tây Tạng lưu vong lại là một học giả của Đại học Harvard ở bên Mỹ! Bảo ông ta là con sói hay đặc công khủng bố thì mấy ai tin"
Đâm ra, nhìn từ quan điểm bảo thủ và sợ sệt của Bắc Kinh, giải pháp ôn hoà của đức Đạt Lai Lạt Ma - mà nhiều người bên trong cũng đồng ý - vẫn là giải pháp có quá nhiều rủi ro!
Mà chối từ giải pháp này thì có khi lại gặp một rủi ro còn lớn hơn: quá phẫn uất, dân Tây Tạng sẽ từ bỏ chủ trương đấu tranh bất bạo động! Xưa kia, dân tộc Tây Tạng rất thiện chiến và xứ Tây Tạng đã từng là một đế quốc quân sự nhiều lần tấn công thẳng vảo kinh đô Trường An của nhà Đại Đường....
Bây giờ hoặc sau này mà có vu cáo những người đấu tranh Tây Tạng là quân khủng bố thì cũng chẳng giải quyết được nhiều bất ổn bên trong, khi lãnh đạo Trung Quốc đang phải chuyển hướng kinh tế vào một khúc quanh có quá nhiều rủi ro. Chưa nói gì đến hiệu ứng của "Mạt Lợi Hoa Cách Mạng" từ Trung Đông dội vào!
Trong khi chờ đợi, cứ vào tháng Ba mùa Xuân là Bắc Kinh lại sợ dân Tây Tạng kỷ niệm vụ khởi nghĩa năm 1959 bằng những cuộc xuống đường biểu tình. Lần nóng nhất là vào năm 2008, khi Trung Quốc chuẩn bị Thế vận hội Bắc Kinh khiến cây đuốc thế vận bị rượt đuổi khắp nơi trên thế giới.
Biết đâu chừng, các Ma vương lãnh đạo Thiên triều đang thầm mong là đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ sống rất thọ, trong khi họ tìm ra một giải pháp an toàn hơn!

Reader's Comment
3/14/201113:32:54
Guest
không gõ được tiếng việt ở đay
Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.