Hôm nay,  

Xin một lần lắng nghe!

27/04/201100:00:00(Xem: 9049)

Xin một lần lắng nghe!

Phan Kiến Quốc

(LTS: Phan Kiến Quốc bây giờ chính là tù nhân Phạm Minh Hoàng. Xin trân trọng gửi đến độc giả bài viết của một tù nhân lương tâm Việt Nam.)

Vào sáng ngày 30/6/2009, Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế (Amnesty International, AI) đã đưa ra một báo cáo cực kỳ bi quan về tình hình tại cửa sông Niger thuộc Nigeria, theo đó sự khai thác dầu lửa tại đây đã đẩy 30 triệu người vào cảnh cơ hàn mà AI gọi là "một thảm họa về quyền làm người". Theo báo cáo này thì người dân sinh sống trong vùng phải uống nước ô nhiễm, ăn cá (khi mà họ có cơ may bắt được) nhiễm đủ thứ mầm bệnh xuất phát từ dầu lửa và các hóa chất độc hại., và trái ngược với những hứa hẹn ban đầu của chính phủ về một tương lai sung túc từ mỏ vàng đen, người dân lại trở nên cùng khổ hơn cả lúc trước.

Đọc bản tin này mà chúng tôi bỗng giật mình, vì những gì nằm trong báo cáo của AI không thấm tháp gì với những gì đang xảy ra trên đất nước VN, và báo hiệu một thảm kịch còn trầm trọng hơn cả những gì đang xảy ra ở cửa sông Niger. Đó là tình trạng ô nhiễm môi trường sau những năm tháng cật lực chạy theo những chỉ tiêu phát triển.

Nói đến vấn đề này chắc mọi người sẽ nghĩ ngay đến 76km của sông thị Vải chảy qua 3 tỉnh có tốc độ công nghiệp hóa hàng đầu của cả nước là Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và TPHCM. Theo báo Người Lao Động tháng 3/06 thì dòng sông hiện như một túi thuốc độc khổng lồ, đe dọa đến cuộc sống và tính mạng của cư dân trong khu vực. Ngoài công ty Vedan đã bị xem như là thủ phạm số 1, còn ít ra là 6 khu công nghiệp cũng như hàng chục nhà máy lớn nhỏ hàng ngày đổ vào đây gần 20.000 m3 nước thải công nghiệp.Theo Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II (MCE) thì hàm lượng khí độc NH3 và H2S trong thủy vực sông rất cao so với ngưỡng thích hợp cho điều kiện phát triển bình thường của các loài thủy sản. Cụ thể, giới hạn cho phép NH3 trong môi trường nước phải nhỏ hơn 0,6 mg/lít và H2S nhỏ hơn 0,005 mg/lít, nhưng thực tế trên sông Thị Vải thành phần khí độc hiện đang ở mức 1,73 và 0,8. Bên cạnh đó, hàm lượng ô xy trong nước cũng rất thấp (1,2 mg/lít), dưới ngưỡng cho phép để duy trì sự sống. Sự ô nhiễm không chỉ đe dọa đến các thủy sản, đến mạng sống con người mà thậm chí các tàu của Nhật Bản không chịu cập cảng Gò Dầu A và B cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy đóng tại KCN Gò Dầu (huyện Long Thành, Đồng Nai) vì cho rằng, sông Thị Vải ô nhiễm nặng bào mòn nhanh vỏ tàu và gây bệnh cho thuỷ thủ, đã cho thấy một sự trả giá trầm trọng hơn: Sản xuất của các nhà máy có thể bị đình đốn vì thiếu nguyên liệu và công nhân phải nghỉ việc vì các loại bệnh do tình trạng ô nhiễm gây ra.

Không riêng gì sông Thị Vải mà hầu hết các con sông lớn của miền Nam chảy qua các khu công nghiệp đều lầm vào tình trạng tương tự. Vào tháng 4/06, Tổng công ty cấp nước Sài Gòn (Sawaco) vừa kiến nghị UBND TP.HCM chỉ đạo Sở Tài nguyên - Môi trường TP.HCM phối hợp với các tỉnh Bình Dương, Tây Ninh ngăn chặn việc xả chất thải xuống sông Sài Gòn nhằm hạn chế tình trạng ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt cung cấp cho TP. Thực ra thì tình hình đã nghiêm trọng hơn đánh giá của Sawaco rất nhiều: hóa chất độc hại cùng hàng trăm tấn cá thối rữa đã hòa vào nước sông Sài Gòn rất lâu khiến hàng trăm tấn cá bè của các hộ dân chết sạch. Cá sống tự nhiên cũng chết, xác nổi trắng mặt sông... Xác cá chết quá nhiều, không kịp thu gom xử lý nên đã thối rữa, làm ô nhiễm trầm trọng nguồn nước sinh hoạt cung cấp cho người dân TP.HCM. Chính quyền các cấp nghi cho Nhà máy cao su Dầu Tiếng, Công ty khai thác thủy lợi Dầu Tiếng và Nhà máy mì Miwon nhưng không hiểu vì lý do gì không đưa ra được kết luận sau cùng.

Tình trạng ô nhiễm nguồn nước trên sông Sài Gòn không phải là vấn đề mới. Lãnh đạo NMNTH nói mặc dù là đơn vị sử dụng trực tiếp nguồn nước sông Sài Gòn nhưng không đủ thẩm quyền để giải quyết vấn đề ô nhiễm mà chỉ "kêu gào" với các cơ quan quản lý địa phương, Sở Tài nguyên - môi trường, thậm chí đến UBND TP.HCM. Tuy nhiên, liên tục nhiều năm nay tiếng kêu chưa thấu "trời xanh" nên việc ô nhiễm vẫn ngày càng diễn biến nghiêm trọng.

Chuyện ô nhiễm sông Thị Vải và sông Sàigòn chỉ là một khía cạnh của vấn đề ô nhiễm, vì ta còn phải kể đến ô nhiễm không khí. Một kết quả phân tích gần đây của Trung tâm phân tích thí nghiệm TP.HCM cho thấy lượng benzen trong không khí tại các trục giao thông chính của thành phố đã lên đến mức báo động đỏ với nồng độ benzen trung bình là 33,6 micro gam/m3, cao gấp 6,72 lần tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới. Sự ô nhiễm ấy xuất phát từ chất thải của 116 khu đô thị có quy mô khác nhau; 47 khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung; trên 50.000 cơ sở sản xuất công nghiệp; 73 bãi rác; hàng nghìn cơ sở chăn nuôi có quy mô công nghiệp; hàng chục bến cảng... kế tiếp còn phải kể đến ô nhiễm do tình trạng phá rừng, tình trạng lạm dục thuốc bảo vệ thực vật, khai thác nước ngầm...

Chuyện ô nhiễm sông Thị Vải và sông Sàigòn cũng không phải là vấn đề cá biệt, nhiều báo cáo cũng nói rằng toàn bộ lượng nước thải của Hà Nội đều thoát qua hệ thống cống thoát nước và 4 sông tiêu chính của là Tô Lịch, Lừ, Sét và Kim Ngưu. Tóm lại, ô nhiễm đã là một vấn đề cực kỳ nghiêm trọng, ảnh hưởng từ Nam chí Bắc, đe dọa sự sống của hàng chục triệu người và có di họa cho các thế hệ sau.

Cái giá của tăng trưởng"

Khi các địa phương tiến hành xây dựng các Khu Công Nghiệp (KCN) và Khu Chế Xuất để thu hút đầu tư trong và ngoài nước, các nhà khoa học đã từng cảnh báo: Phải làm cẩn thận, đừng hy sinh môi trường để đổi lấy đô la! Ở thời điểm này, với sông Đồng Nai và sông Thị Vải, lời cảnh báo này đã không còn giá trị, vì 2 con sông này đang "chết". Ngược lại, cách đặt vấn đề của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường thời ấy (2006) là ông Mai Ái Trực: "Liệu lợi nhuận thu được từ công nghiệp có đủ bù đắp chi phí phải trả cho việc cải thiện môi trường"" lại là vấn đề thời sự. Theo tính toán của cơ quan môi trường 12 tỉnh, thành nằm trên lưu vực sông Đồng Nai, thời điểm này phải cần ít nhất 1.500 tỉ đồng mới có thể cải tạo và bảo vệ được nguồn nước của con sông này. Còn theo tính toán của các nhà khoa học, trong trường hợp nước trên sông Đồng Nai ô nhiễm hữu cơ với nồng độ BOD5 đạt 10 mg/lít, công nghệ xử lý nước đang áp dụng tại Nhà máy Nước Thủ Đức sẽ không bảo đảm chất lượng nước cấp. Do đó, từ nay đến năm 2010, những người sử dụng nguồn nước từ Nhà máy Nước Thủ Đức phải góp thêm 2.100 tỉ đồng mỗi năm gọi là khoản phí tăng thêm để cải tạo hệ thống xử lý nước hiện tại. Rõ ràng, để thu được lợi nhuận từ sản xuất công nghiệp thời gian qua, chúng ta đã hy sinh cả môi trường sống. (Báo NLĐ, 3/06)

Rõ ràng là với tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm đạt trên 8%, VN đang đối mặt với một hiểm hoạ ô nhiễm ngày càng trầm trọng. Bản tổng kết môi trường toàn cầu do Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) công bố vào tháng 3/08 cho thấy VN có hai thành phố là Hà Nội và TPHCM nằm trong danh sách 6 thành phố bị ô nhiễm không khí nghiêm trọng nhất trên thế giới.

Theo tiến sĩ Hoàng Dương Tùng, về nồng độ bụi, Hà Nội và TPHCM chỉ đứng sau Bắc Kinh, Thượng Hải, New Delhi và Dhaka. Rồi theo một nghiên cứu về các chỉ số môi trường ổn định do Trường Đại học Yale (Mỹ) thực hiện trong năm 2006, VN đứng thứ hạng thấp nhất trong số 8 nước Đông Nam Á. Theo Ngân hàng Thế giới, ô nhiễm môi trường ở Việt Nam gây thiệt hại khoảng 5% GDP mỗi năm. Nhiều chuyên gia còn tính rằng nếu tính đến cả các tổn thất môi trường thì tốc độ tăng GDP thực tế của VN sẽ chỉ là 3 - 4%

Nhìn về tương lai

Theo các nhà khoa học, riêng chỉ để cải tạo nguồn nước sống Đồng Nai sẽ vào khoảng 1500 tỉ, nhưng để giải quyết vấn đề tận gốc phải xây dựng các hệ thống cống ngầm tập trung nước thải để xử lý; xây dựng các tuyến cống bao kết hợp các giếng tách để thu gom nước thải và nước mưa bị ô nhiễm nặng đưa về khu xử lý nước thải; xây dựng hệ thống thoát nước mưa riêng, nước thải riêng; giảm nguồn gây ô nhiễm từ bên trong kênh mương bằng cách nạo vét bùn cặn lắng và tăng cường khả năng thoát nước, thu gom rác thải trên kênh mương. Tóm lại toàn những chuyện... bất khả thi và viễn ảnh sống với ô nghiễm có lẽ cũng còn lâu lắm.

Họa vô đơn chí, giải quyết ô nhiễm đang trong ngõ cụt, thì VN lại chuẩn bị đón thêm một thảm họa khác: chuyện khai thác bauxite ở Tây nguyên.

Bài viết này không có tham vọng trình bày những nguy hại của việc khai thác bauxite vì nó đã được nói rất nhiều trên các diễn đàn. Ở đây tôi chỉ muốn làm một cái gạch nối giữa hai cái hiểm họa, một cái thì như nước dâng tới cổ, cái kia thì đang lơ lửng trên đầu.

1. Nhà nước đã quy định, khi một dự án đầu tư được cấp phép hoặc một KCN trước khi đi vào hoạt động, hệ thống xử lý nước thải là tiêu chí bao giờ cũng được đặt trong tốp đầu để cơ quan chức năng xem xét cấp giấy phép hoạt động. Nhưng không hiểu vì sao, các địa phương có nền công nghiệp mạnh của cả nước như TPHCM, Đồng Nai, Bình Dương lại quá lơi lỏng trong việc thực hiện quy định này. Một quan chức Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai thừa nhận: "Lo ảnh hưởng tiến độ hoạt động của các KCN, ảnh hưởng đến thu hút đầu tư, nên các cơ quan chức năng đã "nhẹ tay" khi xem xét về tiêu chuẩn môi trường. Không ngờ bây giờ hậu quả để lại quá lớn!". Đối với các doanh nghiệp tầm vóc Vedan hoặc mì Miwon mà chúng ta còn nhẹ tay thì trong trường hợp bauxite, đối tác của chúng ta là cả một nhà nước khổng lồ thì sự nhân nhượng còn tới đâu"

2. Chuyện "đổi môi trường lấy đô la" và những hệ lụy của nó không phải chỉ xảy ra ở VN mà có ở khắp các nước phát triển, đặc biệt là ở châu Á, một nơi người dân có thói quen coi thần phục chính quyền. Điều này còn đặc biệt đúng ở Trung Quốc. Sau hơn 3 thập niên cải cách, với mức tăng trưởng hai con số đến ngày nay họ bắt đầu phải trả giá: Mưa a-xít đang đổ xuống 1/3 lãnh thổ. Một nửa lượng nước tại 7 con sông lớn hoàn toàn không thể sử dụng. 1/4 dân số không được tiếp cận với nước sạch. 1/3 dân cư đô thị phải hít thở không khí ô nhiễm. Chỉ có chưa tới 20% rác thải tại các đô thị được xử lý bằng các biện pháp thân thiện môi trường. Năm trong số 10 thành phố ô nhiễm nặng nhất thế giới thuộc về Trung Quốc. 76 thảm họa môi sinh đã xảy ra trong đó 8 vụ được coi là trầm trọng chẳng hạn như vụ nổ nhà máy hóa chất trên sông Tùng Hoa tháng 11/2006. Hơn phân nửa trong số 21.000 công ty hoá chất đặt gần sông Dương Tử và sông Hoàng Hà - nguồn nước uống cho hàng triệu dân và những tai nạn có thể dẫn đến "những hậu quả thảm khốc". Kể từ năm 2001, lượng nước thải và chất thải công nghiệp tuôn vào các sông hồ ở TQ tăng lên hàng năm. Trong năm 2004, hơn 200 triệu tấn nước thải và 200 triệu tấn chất thải công nghiệp đổ vào các sông hồ ở nước này.... Điều đó cắt nghĩa một phần tại sao họ lại đóng cửa các mỏ bauxite và nằng nặc đòi khai thác cho bằng được mỏ Tây nguyên VN. Và với những gì đã xảy ra trên đất nước về thảm họa môi trường mà TQ còn không chế ngự được, thực là khó để nói rằng họ sẽ tôn trọng những quy định về môi sinh Bộ Tài Nguyên & Môi Trường chúng ta.

3. Như đã nói ở trên, ngay từ khi các KCN đầu tiên ra đời, các nhà khoa học đã có lời cảnh báo, và với nhưng gì chúng ta thấy chung quanh thì quả là họ có lý. Còn vụ khai thác bauxite hôm nay, khoảng 20 bài viết của các nhà khoa học trong, ngoài nước, trong đó có nhiều người có nhiều năm kinh nghiệm trong ngành khai thác khoáng sản đã nêu rõ cái "lợi bất cập hại", cộng thêm với sự ưu tư của các nhà quân sự, các nhà ngoại giao nắm rõ sự quan trọng của địa bàn, của ý đồ phía Trung Quốc; ngược lại về phía chính phủ thì quanh quẩn chỉ là những lời giải trình ngắn gọn trước Quốc Hội, mà chúng ta cũng biết cái quyền uy của "cơ quan quyền lực cao nhất nước" này giới hạn đến đâu, rồi thế là cứ xăm xăm thực hiện. Mười, hai mươi năm nữa, khi những tiên liệu của các nhà khoa học thành sự thực, ai sẽ trả lời cho các thế hệ con cháu chúng ta"

Để kết thúc bài này, chúng tôi xin dẫn lời Ông Yutaka Matsuzawa là chuyên gia của JICA tại Dự án Nghiên cứu quản lý môi trường nước các lưu vực sông tại VN:"Thành thật mà nói, thật khó có thể tìm ra ví dụ về một nước nào đó, có cùng trình độ phát triển kinh tế mà lại ô nhiễm đến như VN. Tôi cho rằng, VN là trường hợp đầu tiên trên thế giới có mức độ ô nhiễm nặng nề và nhanh đến vậy, nếu so với quy mô kinh tế. Có thể, Trung Quốc hiện khá tương đồng về ô nhiễm so với VN. Nhưng, Trung Quốc lại hoàn toàn khác biệt về quy mô dân số, về tỉ trọng kinh tế. VN đạt được tốc độ phát triển kinh tế rất nhanh trong thời gian qua, nhưng đồng thời cũng phải đối mặt với vấn nạn ô nhiễm môi trường trong thời gian rất ngắn, rất sớm. Nếu nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng ở mức độ cao như hiện nay, điều kiện môi trường sẽ ngày càng tồi tệ hơn. Nếu không có những hành động quyết liệt, VN sẽ đối mặt với thảm hoạ môi trường rất sớm. Các nước khác, theo tôi, còn có linh động về thời gian, nhưng vấn đề môi trường ở VN đã là rất cấp thiết".

Ôi Đảng, ôi Nhà Nước! hãy một lần làm ơn biết lắng nghe!

Sàigòn, 3/7/2009

Phan Kiến Quốc

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.