Hôm nay,  

Thư Gửi Bạn Nguyễn Mộng Giác

07/07/201200:00:00(Xem: 11455)
Lời phi lộ: Thật sự, tôi gửi điện thư này cho Nguyễn Mộng Giác vào năm 2006. Tôi cũng không dám hy vọng điện thư này được bảo tồn trong phần Tư liệu thư tịch của nhà văn Nguyễn Mộng Giác. Nếu điện thư này được Nguyễn Mộng Giác bảo tồn thì đó là một phép lạ và cũng là vinh dự lớn cho tôi. Tôi muốn nói Nguyễn Mộng Giác đã chia sẻ nội dung của điện thư này với tôi. Phần lớn nội dung bức thư này anh đã quên vì lâu quá 45 năm rồi. Tôi mạo muội công khai điện thư này không ngoài chủ đích soi sáng một vài góc khuất trong tác phẩm của anh đôi lúc bị ngộ nhận. Và xin đừng hiểu lầm tôi là kẻ thấy ai sang bắt quàng làm họ./. Cám ơn- Đào Như –July-4-2012

***

Giác thân mến

Đáng lẽ tôi viết cho anh thư này lâu rồi, trước năm 2000! Nói cho có vẻ “lên gân” một tí, là từ thế kỷ trước! Không hiểu tại sao tôi mãi chần chừ! Có lẽ tại vì tuần rồi đọc thư điện của anh, khiến tôi ngồi lại viết thư này. Tôi muốn ôn lại với anh những liên hệ bằng hữu giữa chúng mình. Tôi biết trong quá khứ, hình như anh không hề để ý nhiều cho mấy về sự liên hệ ấy, hay có đi nữa, cũng chỉ lơ mơ. Đối với anh, tôi chỉ “là người bạn chí thân trong thời tuổi trẻ” như anh từng nói! Nhưng đối với tôi, anh chẳng những là người bạn chí thân của tôi, anh còn là người bạn có tâm hồn, có cá tính như tôi thường nói với anh. Chúng ta đã từng thâu đêm suốt sáng nói dốc với nhau về Leon Tolstoi, Ernest Hemingway, La Sơn Phu Tử…mà không bao giờ biết mỏi miệng trong những ngày tháng chúng ta ở chung với nhau từ đường Cô Bắc, Cô Giang sang đến 81 Bùi Viện-Saigòn.

Chắc anh còn nhớ, khi chúng ta ngã ra hai lối rẽ, tôi quyết tâm ôm lấy nghiệp Y, Giác trụ lại Văn Khoa, tôi có để lại cho Giác cuốn sách quí của tôi: “Siêu Hình Học” của Nguyễn Đình Thi. Xa nhau từ thuở ấy, bây giờ coi như sau hơn 45 năm chúng ta mới gặp nhau trên Internet! Thú thật trong hơn 45 năm xa cách, nếu bảo rằng không có lúc nào mà tôi không nghĩ tới anh, nói vậy là có hơi quá, nhưng thật sự tôi không ngừng lắng nghe về anh! Trong 45 năm xa cách chúng ta có hai lần găp nhau rất ngắn nhưng khó quên!

Tôi nhớ hình như một hay hai năm trước MậuThân, mùa hè năm đó tôi về nghỉ hè ở Nhatrang. Một tối có trăng, tôi đi bộ hóng mát trên bãi biển Nhatrang, đến lúc mệt tôi ngồi xuống bãi cát môt mình suy nghĩ về các bạn bè. (Đó cũng là một tác động chung của Chiến tranh trong tâm tư mọi người đương thời, nhất là những người trẻ như chúng ta) Lúc đó trăng cũng vừa lên cao vượt khỏi đỉnh của cù lao Hòn Yến. Tôi nhìn ra mặt biển loáng ánh trăng, tôi thấy một bóng người cách tôi vào khoảng hơn mươi thứơc, đang lui cui đi một mình. Không hiểu tại sao tôi vụt miệng gọi:“Giác”. Lúc nghe tiếng tôi gọi, thì anh liền đáp lại“Thể”, tôi thấy cái bóng đen đang quay nhìn chung quanh, tôi đoán lúc đó mặc dầu gọi tên tôi, nhưng anh vẫn chưa thấy tôi đang ở đâu! Sau đó, Giác đến ngồi bên cạnh tôi. Câu đầu tiên tôi hỏi Giác:

- Viết nhiều chưa?

Giác trả lời :

- Chưa!.. Chưa là bao!.. Ông còn học Ykhoa?

- Vâng, vẫn còn lận đận.. học Y khoa!...

Sau đó hai thằng cùng im lặng, ngồi bên cạnh nhau suốt hơn một giờ mà không nói với nhau một câu nào hơn! Hai đứa cùng nhìn ra mặt biển loáng ánh trăng vàng, cùng nghe thỉnh thoảng tiếng súng hay tiếng đại bác nổ xa xa, hòa lẫn với tiếng sóng biển êm nhẹ rì rào! Sau lưng chúng ta lúc đó là bóng của dẫy lầu nhà hàng Beau Rivage, và ngôi trường cũ của chúng ta, trường Trung Học Võ Tánh, đang trầm ngâm dưới ánh trăng! Rồi trăng càng lúc càng lên cao, vịnh Nhatrang càng thơ mộng, nhưng lúc ấy có tiếng súng đại bác nổ gần hơn làm chúng ta giật mình và nhớ gần đến giờ giới nghiêm. Hai đứa cùng đứng dậy chia tay nhau, trong cái bắt tay câm như hến, không nói với nhau một lời, ngay cả lời hẹn tái ngộ! Tại sao chúng ta tình cảm với nhau đến thế! Có lẽ chúng ta có nhiều điều muốn nói với nhau, nhưng biết chắc là dù có nói cho nhiều đi nữa cũng không nói hết được những suy nghĩ cũng như những mơ uóc của chúng ta. Những suy nghĩ về đất nước, về chíến tranh, về những chế độ, những xung đột chính trị mà chúng mình từ tuổi thơ đã từng đi qua, cũng như hiện tại chúng ta đang chứng kiến: Cộng sản cũng như Quốc gia, Chiến tranh xâm lăng cũng như Chiến Tranh Giải Phóng! Nhiều thứ quá, phải không Giác! Chúng ta mang nặng nhiều thứ trên lưng trên đường đến trường, trên đường trở về nhà mỗi ngày! Biết bao bạn bè đã ra khỏi lớp, đã tan hàng, đã mất, đã đi đâu về đâu. Những hố tránh bom trong lớp học đào ngay dưới chân chúng ta, trong suốt mấy mươi năm qua vẫn há miệng nhìn chúng ta.

Rồi đến năm 1991, tôi có dịp đi Cali, tôi gặp lại Giác ở khu phố Westminster. Lúc ấy trông Giác già hẳn đi và trầm mặc! Giác có vẻ xa lạ với tôi. Giác có đãi cho tôi môt ly cà phê. Và chỉ một ly cà phê cho một người bạn ViệtNam đến từ một tiểu bang khác không hơn không kém. Trong lúc uống cà phê tôi nhìn Giác một cách yên lặng và ngạc nhiên! Giác không hề nhắc đến kỷ niệm giữa chúng ta đã từng chia sẻ với nhau về nhiều vấn đề phần lớn là văn học nghệ thuật! Giác cũng không cho tôi hay là đã viết đến đâu, mặc dầu tôi biết hết những tác phẩm của Giác đã viết, từ “Nỗi Băn Khoăn Của Kim Dung”, (đứa con đầu lòng của Giác, mà Bà Mụ Đỡ là học giả Nguyễn Hiến Lê), đến bộ Trường thiên tiểu thuyết “Mùa Biển Động” mà Giác vừa xuất bản đầu năm 90!

Tôi tức tối hỏi Giác:

- Ông làm cái gì bây giờ?

Giác với vẻ mặt ngờ ngẫn trả lời tôi:

- Qua đây thì cũng học đòi viết lách một ít như mọi người vì mình cũng học được một ít chữ nghĩa từ đất mẹ!

Ôi! Cái gì lạ vậy! Sao nghe hắc hơi thế?..Chắc “nẩu” quên mình rồi! Tôi tự nhủ thầm! Đúng là “Ngựa Nãn Chân Bon”! Mệt mỏi rồi chăng Giác ơi? Sao đuối sớm thế? Trong khi ấy tôi chưa bắt đầu được gì cả?

Bất ngờ, sau đó Giác dẫn tôi vào nhà sách. Giác chỉ cho tôi bộ sách Mùa Biển Động của Giác vừa xuất bản!

Thú thật lúc đó Giác đâu có hay, trước đó, tôi đã đọc MBĐ nhiều lần! Sau khi từ giã nhau hôm ấy, tôi tin rằng Giác không thể nào hiểu được sự nín lặng của tôi, khi tôi cầm trọn bộ MBĐ trên tay tôi, cũng như tôi rất buồn khi tôi nghĩ chắc nẩu hòan tòan quên mình rồi! Không hiểu Giác còn nhớ không? Hôm ấy chúng ta găp nhau chỉ trong 15 phút, trên đất khách quê người, sau bao nhiêu năm xa cách, biết bao nước chảy qua cầu!

Sau Giác và mãi về sau này tôi chưa từng chia sẻ với ai về văn học, triết học, phim ảnh… nhiều cả về số lượng và chất lượng, như tôi đã từng chia sẻ với Giác trong những năm 1959-60! Những năm đó tôi tự cho là “Tuần Trăng Mật”của chúng ta với nền văn học Liên Sô, nền văn học Hiện Sinh của Pháp, và của Âu châu! Có thể nói chúng ta lúc ban đầu đọc rất hổ lốn, hầm bà lầm, không hệ thống, đụng tác phẩm nào có tên tuổi mà các thầy Cung Giũ Nguyên, thầy Thạch Trung Giả, thường nhắc đến là chúng ta mua hết và chia nhau tranh nhau đọc hết. Hồi ấy cả một kho tàng văn học thế giới Tây phương đều được dịch ra bằng tiếng Pháp, và được nhà xuất bản Flammarion uy tín bậc nhất của Pháp cho xuất bàn dưới hình thức Livres de Poche với giá rẻ mạt vào khỏang 10 đồng một cuốn, đồng giá với vé xi nê Vĩnh lợi hay Lê Lợi và cũng đồng giá với một bữa ăn của chúng ta tại quán ăn xă hội, Anh Vũ, quán ăn chỉ dành cho sinh viên nghèo! Chắc hồi này chưa có cái luật khốn nạn gì đó như hôm nay quyền-lợi-sỡ-hữu-trí-tuệ cho nên giá bán mới rẻ mạt và sách được dịch thoải mái như vậy! Tôi nhớ thuở đó tôi không hiểu tại sao Giác mê nền văn học Liên sô và các quốc gia Đông Âu đến thế! Tôi thấy Giác ôm chặt các tác giả Ivan Tourgueniev, Maxime Gorki, Putchkine, Tolstoi, Dostoesky, Tchekov… cũng như Gorghiu (Vingtcinquième Heure), Kafka (Métamorphoses), Arthur Koestler(Le Zéro et LInfini)..và một số tác giả của nhóm Hiện Sinh của Pháp: như Sartre, Camus, Simone De Beauvoir….Có một điều lạ là Giác thích đọc Marcel Proust và các tác phẩm Thérèse Desqueyroux, Le Noeud de vipères, Le Mystère Frontenac, Les Anges noirs… của ông già Fracois Mauriac, một Janséniste cực đoan mà tôi không thích một tí nào cả! Có điều lạ hơn nữa, trong tất cả tác phẩm của Giác sau này, tôi không thấy dấu vết gì của các ông ấy cả? Trong giai đoạn này tôi không hiểu tại sao Giác và tôi không hề trao đổi với nhau về Francoise Sagan và những tác phẩm của nàng: Bonjour Tristesse, Un Certain Sourire, Aimez Vous Brahms…Có lẽ chúng ta đã đọc Francoise Sagan rất nhiều những năm 56-58 khi chúng ta học ở Trung học Võ Tánh Nhatrang, dưới sự hướng dẫn của Thầy Cung Giũ Nguyên! Lúc ấy chúng ta cũng si mê đọc tác phẩm lớn của thầy: “Le Fils De La Baleine”.

Nhớ lại thời kỳ chúng ta ăn quán cơm xã hội, Anh Vũ, tại Ngã Tư Quốc tế, đối diện với cái gát xếp, 81 Bùi Viện mà một lũ chúng mình chen nhau ở. Nhớ lại thời kỳ bụi ấy nghĩ lại mà vui, thời vàng son không dễ gì tìm được! Tôi nhớ, vào một tối tại 81 Bùi Viện, hai đứa mình coi trời bằng vung, trước mặt anh em, (cũng không phải ai quan trọng cả cũng chỉ là một lũ học trò khó tha phương ở chung với nhau) Giác thì đem Le Vieil homme et la Mer” của Ernest Hemingway ra phân tích, và Giác phán cho một câu: “Le vieil homme et La Mer” là Chef dOeuvre của Ernest Hemingway, mang tính chất tổng hợp của tất cả tác phẩm của E.H.! Chỉ cần đọc “Le Vieil Homme et la mer” là người đời đủ biết quan niệm sống chiến đấu của E.H. như thế nào rồi”! Trong lúc đó tôi cũng ngon lành như ai cũng thao thao bất tuyệt, ngợi ca “La Symphonie Pastorale” là tổng hợp tư tưởng của Gide (chic! rất tiếc hồi đó cụm từ đỉnh-cao-trí-tuệ chưa được phát minh, chớ nếu có thì tôi cũng không ngại gì lụm nó và nhét vào cho nó ra vẻ ra cách)! Tôi còn nói thêm là tôi kính trọng Gide là một thiên tài văn học! Nhưng ông có cái nhìn vào cuộc đời vào xã hội quá bi quan khi Gide bắt cô bé Gertrude tự vận, sau khi cô ấy nhìn thấy sự thật của đời của xã hội! Ghê gớm thật! Y như chúng ta là những thần đồng của thế kỷ! Bây giờ nghĩ lại, Giác thấy thế nào? Tôi thì…tôi thấy rất vui, và vui lắm! Ôi một thời vàng son, cũng là một thời khùng điên của tuổi trẻ chúng ta đã bay mất! Làm sao tìm lại được! Ôi những cái lẩm cẩm của một thời tuổi trẻ sao nó vĩ đại thế! Có ai biết đâu nó là cấu trúc cho cuộc sống tinh thần của chúng ta sau này!

Nói về phim ảnh, nhắc đến chuyện này chắc Giác ngả ngữa ra cười! Chúng ta là những khán giả thường trực cả hai rạp Vĩnh lợi và Lê Lợi! Lý do là hai rạp ấy có máy lạnh tốt, giá rẻ, 10 đồng một vé permanent, nghĩa là muốn coi bao lâu thì coi, bắt đầu chiếu từ 12 giờ trưa đến giờ giới nghiêm. Nhiều lúc căng gát xếp 81 Bùi Viện nóng quá hai đứa rủ nhau đi ciné, chắc Giác còn nhớ, vào rạp máy lạnh mát quá, phải thế quá, hai thằng ngủ thẳng cẳng, sau đó thực dậy coi film cũng không muộn! Rạp Lê Lợi, hơi tối, chuyên môn làm “revision những phim cổ điền của Châu Âu, nhất là của Fellini.

Rạp Vĩnh Lợi thì chuyên môn chiếu những phim mới. Tôi nhớ tại rạp này chúng mình đã xem vô số phim. Những phim thời đại nhất của thuở đó như là: “Aimez Vous Brahms?” “Un Certain Sourire” của Francoise Sagan và nhất là Et Dieu crée la Femme film của đạo diễn Roger Vadim, một phim lõa thể đầu tiên của nhân loại với Brigit Bardot lúc ấy vừa đúng mười tám! Chúng ta không ngừng chắc lưỡi tiếc nuối vì có những đoạn 100/100 mà bọn kiểm tục cắt bỏ!..Tại rạp này chúng ta cũng xem không biết muôn vạn cơ mang nào mà kể cho xiềt, kể cho hết được!..Tới đây tôi mời Giác dừng lại và nói về một phim rất đặc biệt! Phải nói phim này ảnh hưởng sâu sắc vào cuộc đời của chúng ta! Chính phim này là một trong những nguồn cơn làm tôi thao thức, tôi đã bỏ Khoa Văn qua Khoa Y! Đến bây giờ tôi vẫn một lòng tôn sùng nó, tôi vẫn nhớ ơn Serge Bourguignon (nhà đạo diễn của phim) người đã khai tâm điểm nhãn cho tôi thấy chân trời Triết học nằm trong không gian rộng lớn của Y học! Đó là phim “Les Dimanches De Ville dAvray” mà Giác và tôi đi xem có đến hơn mười lần tại rạp Vĩnh lợi! Chúng ta thuộc lòng tất cả dialogues của phim, mà những dialogues trong phim này phải nói rằng siêu! Tôi tin chắc rằng Giác còn nhớ về phim này những tình tiết sâu sắc hơn cả tôi, vì tôi thấy ảnh hưởng của phim này đầy dẫy lúc ẩn lúc hiện trong những tác phẩm của Giác! Hơn 45 năm sau, tác phẩm truyện ngắn đầu tay của tôi “Câu Lạc Bộ 309.81” viết với thao thức trăn trở của chiến tranh vì ảnh hưởng của phim này! Chắc Giác còn nhớ anh chàng phi công Pierre(Hardy Grudger), và cô bé mồ côi Cybelle(Patricia Guzzi), họ gặp nhau trong cô đơn, hiu quạnh, giữa nhân loại dững dưng, giữa đời thường chai đá trước nỗi băn khoăn của đồng loại! Hai người đều là nạn nhân của chiến tranh, của di-chứng-hậu-chiến. Cô bé được sanh ra trong chiến tranh, lớn lên trong cảnh côi cút! Lúc gặp anh chàng cựu phi công hình như cô ấy mới có 9 hay 10 tuổi phải không Giác? Nghĩa là còn nhỏ lắm, nhưng đã chín mùi trong mơ ước tìm một nơi trú ẩn cho tâm hồn mình! Còn anh chàng phi công đă từng ném bom, đánh phá cầu đường, làng mạc tại Thái Lan, những nơi mà nghi có quân đội Nhật ẩn náu! Dĩ nhiên anh chứng kiến tận mắt những tang thương, những đổ nát, chết chóc do anh và các đồng đội tạo nên cho Thái lan, một đất nước vô tội vì họ không có can dự gì với cuộc chiến cả! Anh trở nên kẻ ôm hận chính anh, kẻ ôm hận chiến tranh! Anh trờ thành nạn nhân của chiến tranh vì những dầy vò những đau đớn phủ xuống đời anh! Khi anh gặp cô bé ấy, anh yêu thương cô bé ấy vô hạn! Một tình yêu không có định nghĩa, không có màu sắc! Một tình yêu thiêng liêng cao cả quá mà đời thường rất dể nhầm lẫn! Còn cô bé ấy tìm thấy gì ở anh chàng phi công ấy? Có phải chăng cô đã tìm thấy ở anh chàng ấy một người anh, một người yêu, một người cha, một người che chở cho đời mình, một nơi trú ẩn cho linh hồn nhỏ bé của cô? Thật là khó nói! Không có biên cương, không có luân lý, đạo đức gì mà có thể buộc vào sự tưởng tượng sư mơ ước của một bé gái mới 9, 10 tuổi! Họ gặp nhau, họ hiểu nhau, họ có cùng chung quá khứ, họ chia nhau chung số phận, họ có những cảm nhận ở nhau mà người thường khó mà chia sẻ dược!..Họ là đôi linh hồn khổ lụy vì chiến tranh đứng trên một thế giới đổ nát vì chiến tranh! Câu chuyện đã được kết thúc quá thê thảm! Phải không Giác! Pierre bị ngộ nhận, nhầm lẫn, và bị giết chết bởi một loại người lạc hậu! Cybelle, Pierre cũng như những kẻ đã giết Pierre đếu là nạn nhân của chiến tranh, đều là nạn nhân của di-chứng-hậu-chiến!

Serge Bourguignon có cái nhìn về chiến tranh và hậu quả của nó thật độc đáo, đi trước lòai người gần nửa thế kỷ! Ông đã nói về những“Hội Chứng Hâu Chiên”! Trong chiến tranh chúng ta không sợ nghèo đói và đổ nát, nhưng chúng ta rất sợ nhầm lẫn, ngộ nhận, hận thù và lạc hậu!

Nói về chiến tranh, tôi không biết Giác viết “Sông Côn Mùa Lũ” vào lúc nào? Nhưng tôi biết chắc Giác đã thai nghén giấc mơ ấy lâu lắm rồi! Tôi nghĩ Giác đã nghĩ đến viết một quyển trường thiên tiểu thuyết theo kiểu như “Guerre Et Paix” của Léon Tolstoi khi Giác còn ở chung với tôi 1959-60, tại 81 Bùi Viện Saigòn. Tôi sớm cảm thấy điều ấy mặc dầu chưa bao giờ Giác nói với tôi Giác sẽ là một nhà văn! Giác đọc chuyên tâm “Guerre Et Paix của Léon Tolstoi nhiều hơn tôi! Giác có nhiều thao thức và trăn trở về quyển sách ấy! Tôi đã tích cực chia sẻ với Giác về quyển sách ấy. Giác thán phục Leon Tolstoi trong Guerre et Paix, Giác ca tụng Léon Tolstoi bỏ ra 10 năm nghiên cứu lịch sử của Liên Xô để hoàn thành Guerre Et Paix một tác phẩm to lớn của nhân loại. Giác đã đọc và nghiền ngẫm tác phẩm ấy nhiều lần và nhiều năm tháng! Giác đã từng gọi Léon Tolstoi là Homère của thế kỷ 20!

Sau hơn 45 năm chúng ta mới gặp lại nhau. Biết bao nước chảy qua cầu, lịch sử đất nước trãi qua nhiều giai đọan khác nhau và chúng ta bị ràng buộc vào vận mệnh vô cùng nghiệt ngã của lịch sử dân tộc! Nhưng dù“ra đi hay ở lại”tất cả chúng ta và bạn bè cùng anh em đều cố gắng phấn đấu đưa tổ quốc ra khỏi tình trạng “ ngộ nhận, hận thù, lạc hậu..”! Sau bao nhiêu năm phấn đấu học hành, từ khi tốt nghiệp đến bây giờ, chúng ta không ngừng phục vụ tổ quốc và đất nước dù chúng ta sống ở nơi đâu, đi đâu về đâu. Dòng sông Côn cũa Bình định luôn luôn và vẫn chảy trong tâm hồn của Giác, cũng như dòng sông Dinh của Phanrang, trong tâm hồn của tôi! Tôi vui mừng cho Giác là đã thực hiện được giấc mộng lớn!

Bây giờ ở tuổi 70, ngồi viết thơ cho Giác, tôi thấy sao tôi vẫn còn ham muốn. Giác biết bọn mình lớn tuổi cả. Tôi bị áp huyết cao từ năm 1996, lúc tôi đúng 60. Trong 4 năm qua, tôi phải ăn kiêng vì tôi bị “diabète loại 2”. Không aì có thể cưỡng lại sự già nua của tế bào! Vì thế cho nên tôi không ngạc nhiên gì khi Giác cho tôi hay là Giác đã hai lần nhập viện để mổ ung thư gan! Một lần vào năm 2003 và lần thứ hai vào đầu năm nay! Và tháng ba vừa rồi Giác bị xuất huyết dạ dày, lại phải nhập viện để can thiệp phẩu thuật một lần nữa để cầm máu! Biết bao là tai biến về sức khỏe và tâm thần đang rình rập chúng ra trong tuổi già! Nói như vậy không phải để tự an ủi mình, cũng không phải để cùng nhau bi quan về cuộc đời về kiếp nhân sinh! Giây phút nào còn sống ta nên trân trọng và tận hưởng giây phút đó! Ngày nào mình còn có nhau, bạn bè anh em còn có nhau hãy sống tận tình và đối xữ ân cần với nhau, hãy chăm chút cho nhau khi đọc chữ nghĩa của nhau! Sống như Giác và viết như Giác, mai sau Giác có ra đi, ít ra trong đời này, những kẻ theo nghiệp chữ như bạn bè, như Mai Quốc Liên vẫn còn nhớ đến Giác:

“Sông Côn vẫn chảy trong đời, trong văn anh viết,
Và hai hàng soi bóng vào nhau
Sẽ có người thiếu nữ của mai sau
Nhỏ giọt lệ thương An, thương cuộc đời nhân loại
Chợt tỉnh giấc mộng dài, trời xanh chói lọi
Bao buồn vui sướng khổ đã đi qua”./. (MQL / Nhà Văn số 4-2003)
Mong gặp lại Giác thư sau.

Chúc sức khỏe
Đào Như
Oak Park, Ill. USA / Ngày 1/4/2006
*Tôi vừa được tin nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa từ trần vào ngày thứ tư 22/3/06 tại Minnesota! Giác hay tin chưa?

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nobel là một giải thưởng cao qúy nhưng đó không phải là tất cả hay tối thượng mà, xét cho cùng, mục tiêu của nền văn học quốc gia hay bất cứ lĩnh vực nào khác đâu nhất thiết là hướng tới giải Nobel? Mahatma Gandhi đã năm lần bị bác giải Nobel Hoà Bình nhưng so với một Henry Kissinger hí hửng ôm nửa cái giải ấy vào năm 1973, ai đáng ngưỡng mộ hơn ai? Tuyên ngôn Nobel Văn Chương 1938 vinh danh nhà văn Mỹ Pearl Buck về những tác phẩm “diễn tả xác thực đời sống của nông dân Trung Hoa” nhưng, so với Lỗ Tấn cùng thời, nhà văn không chỉ diễn tả xác thực đời sống mà cả tâm não của người Trung Hoa, ai để lại dư âm lâu dài hơn ai?
Nếu mũ cối là biểu tượng của thực dân Tây phương vào thế kỷ 18 thì, bây giờ, “năng lượng tích cực”, như là diễn ngôn của thực dân Đại Hán với những dấu ấn đậm nét của tân hoàng đế Tập Cận Bình, đã trở nên gắn bó với người Việt, từ diễn ngôn của thể chế cho đến giọng điệu ngôn tình của những đôi lứa bỡ ngỡ trước ngưỡng cửa hôn nhân.
AI là trí tuệ nhân tạo. AI là một kho kiến thức nhiều vô cùng vô tận, đã siêu xuất chứa đựng nhiều thư viện nhân loại hơn bất kỳ dữ liệu tri thức nào, và cứ mỗi ngày AI lại mang thêm nhiều công năng hữu dụng, mà một người đời thường không thể nào có nổi kho tri thức đó. Trong khi đó, Thầy Tuệ Sỹ là một nhà sư phi thường của dân tộc, với những tri kiến và hồn thơ (như dường) phong phú hơn bất kỳ nhà sư nào đã từng có của dân tộc Việt. Câu hỏi là, AI có thể biểu hiện như một Tuệ Sỹ hay không? Chúng ta có thể gặp lại một phong cách độc đáo của Tuệ Sỹ trong AI hay không? Thử nghiệm sau đây cho thấy AI không thể sáng tác được những câu đối cực kỳ thơ mộng như Thầy Tuệ Sỹ. Để thanh minh trước, người viết không phải là khoa học gia để có thể hiểu được vận hành của AI. Người viết bản thân cũng không phải học giả về kho tàng Kinh Phật để có thể đo lường sự uyên áo của Thầy Tuệ Sỹ.
Israel và Iran đã âm thầm chống nhau trong một thời gian dài. Nhưng nhiều diễn biến sôi động liên tục xảy ra gần đây làm cho xung đột giữa hai nước leo thang và chiến tranh có nguy cơ bùng nổ và lan rộng ra toàn khu vực. Điển hình là vào tháng 4 năm nay, Iran công khai tấn công bằng tên lửa vào lãnh thổ Israel. Đầu tháng 10, Israel đã tấn công bằng bộ binh ở miền nam Lebanon. Trước đó, trong cuộc không kích vào trụ sở dân quân Hezbollah ở Beirut, Israel đã tiêu diệt thủ lĩnh Hezbollah là Hassan Nasrallah và nhiều nhân vật quan trọng khác.
Nhà báo Cù Mai Công vừa lên tiếng nhắc nhở đồng nghiệp (“Ráng Xài Tiếng Việt Cho Đúng, Xài Bậy, Dân Họ Cười Cho”) vào hôm 6 tháng 9 vừa qua. Ông dùng tựa một bản tin của báo Dân Trí (“Hai Kịch Bản Siêu Bão Yagi Tác Động Đến Đất Liền”) như một thí dụ tiêu biểu: “Trong toàn bộ các tự điển tiếng Việt xưa nay, ‘kịch bản’ nguyên nghĩa là bản viết cho một vở kịch, sau có thể mở rộng thành văn bản, bản thảo về nội dung cho một phim truyền hình, quảng cáo, phim ảnh, gameshow…
Trong nhiều ngày qua, Donald Trump và Cộng Hòa MAGA tung rất nhiều tin giả hay bóp méo và nhiều thuyết âm mưu liên quan đến cơn bão lụt Helene một cách có hệ thống. Mục đích để hạ đối thủ Kamala Harris và Đảng Dân Chủ. Theo tường thuật của CNN vào ngày 6/10, Cựu Tổng thống Donald Trump đã đưa ra hàng loạt lời dối trá và xuyên tạc về phản ứng của liên bang đối với cơn bão Helene. Theo MSNBC, “Những lời dối trá đó đã được khuếch đại bởi những người như tỷ phú Elon Musk, nhà lý luận âm mưu chuyên nghiệp Alex Jones và ứng cử viên Đảng Cộng hòa đang dính nhiều bê bối cho chức thống đốc Bắc Carolina, Mark Robinson. Dân biểu Marjorie Taylor Greene, một đồng minh trung thành của Trump.” Ngay cả Hùng Cao, một nhân vật MAGA mới bước vào chính trường cũng góp phần vào việc nấu nồi canh hẹ này.
“Luật Phòng Chống tham nhũng ở Việt Nam năm 2005 nêu rõ: Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để vụ lợi.”
Kể từ khi tổ chức khủng bố Hamas tấn công vào Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, các vụ xung đột đẫm máu xảy tại Dải Gaza cho đến nay vẫn chưa kết thúc. Nhưng gần đây, cộng đồng quốc tế còn tỏ ra lo ngại nhiều hơn khi giao tranh giữa Israel và lực lượng dân quân Hezbollah ở Lebanon đang gia tăng. Bằng chứng là sau cái chết của thủ lĩnh Hamas Ismail Haniya và thủ lĩnh Hezbollah Hassan Nasrallah, tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Trong vài tháng qua, người dân Mỹ, dù muốn hay không muốn, cũng đã có nhiều cơ hội để nhìn về một bức tranh mà trong đó có quá nhiều sự tương phản. Những mảnh ghép từ hai tầm nhìn, hai chiến lược, hai mục đích hoàn toàn khác biệt đã dần dần rơi xuống, để lộ ra hai con đường hoàn toàn khác biệt cho người Mỹ lựa chọn. Dù có một bức màn đã rơi xuống (như nữ hoàng Oprah Winfrey đã ví von) cho một thuyền trưởng bước ra, trao lại cho người dân sự hy vọng, lòng tin, trách nhiệm, thì sâu thẳm bên trong chúng ta vẫn muốn biết, những giá trị thực của một triều đại đã mang lại. Từ đó, niềm tin sẽ được củng cố.
Bi hài kịch “ngoại giao cây tre”, với hoạt cảnh mới nhất là “cưỡng bức đặc xá”, đã giúp chúng ta nhận ra rằng, dẫu khác nhau nước lửa, “phóng sinh” và “hiến tế” vẫn có thể hội tụ ở ý nghĩa “triều cống” khi phải chiều lòng hai cường quốc ở hai đầu mút của hai hệ tư tưởng trái ngược nhau. Để đẹp lòng bên này thì phải nhẫn tâm “hiến tế”, mà để làm hài lòng bên kia thì phải diễn tuồng “phóng sinh” để có một dáng dấp khai phóng, cởi mở. “Chiến lược ngoại giao” này, phải chăng, là một trò chơi “ăn bù thua” mà, diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học của Game Theory, là có tổng bằng không?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.