Hôm nay,  

Yêu Cầu Minh Bạch Trong Giao Dịch Tài Chính Quốc Tế

22/08/201200:00:00(Xem: 17873)
Thuần về kinh tế, đầu cơ chỉ là đầu tư và không hàm ý xấu xa về đạo đức mà thật ra cũng khác với nạn tích trữ...

Trong một chương trình trước, khi trình bày bối cảnh của vụ tai tiếng về lãi suất Libor, chúng ta có thấy ra một yêu cầu khách quan của các thị trường tài chính. Đấy là sự minh bạch và bình đẳng của mọi người ở trong cuộc, như các ngân hàng và giới đầu tư. Vụ khủng hoảng về lãi suất Libor bùng nổ vì một số ngân hàng lại ở vào vị trí ưu đãi là đưa ra những con số thiếu xác thực về lãi suất nên có thể trục lợi bất chính. Vì vậy, họ đang bị điều tra và truy tố. Xuyên qua vụ tai tiếng ấy, người ta còn thấy ra một thực tế là các ngân hàng có thể là thiểu số chiếm ưu thế và gây thiệt hại cho đại đa số những người còn lại.

Chính là cảm nghĩ chung của mọi người về tình trạng bất công ấy mới khiến dư luận nói đến "thiểu số 1%" các đại gia cự phú đã cùng nhau chia chác quyền lợi trên đầu trên cổ của đa số còn lại. Nhưng thuần về kinh tế thì sự thể diễn tiến thế nào, nhất là với loại hình đầu tư cực kỳ phức tạp như các "biến phiếu" hay "dérivatifs" mà chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa đã đề cập trong một chương trình trước.

Kỳ này, chúng ta sẽ tìm hiểu thêm về chuyện đó qua cuộc phỏng vấn sau đây....

RFI: Xin kính chào anh Nghĩa. Thưa anh, như đã hẹn kỳ trước khi chúng ta phân tích vụ tai tiếng Libor, tuần này ta sẽ cùng trao đổi về loại hình đầu tư "dérivatifs" rất phức tạp mà anh gọi là "biến phiếu". Thí dụ như loại "swap de devises" hay hợp đồng hoán đổi ngoại tệ mà người ta gọi theo Anh ngữ là "currency swap" hay nhiều loại đầu tư khác. Vấn đề đặt ra ở đây là trong môi trường đầu tư cực kỳ rắc rối ấy, có thể nào mà người đầu tư bị một thiểu số là các ngân hàng bóc lột một cách bất chính hay không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thấy rằng đề tài này rất hấp dẫn và cần thiết ở hai khía cạnh.

- Thứ nhất là về đạo tắc, hay quy tắc đạo đức, khi mà một thiểu số lại có ưu thế về thông tin hơn đa số còn lại thì nhà nước có cách nào giải trừ hay ngăn ngừa được không? Thứ hai là về thực tế vì vụ khủng hoảng tài chính bùng nổ năm 2008 chính là từ các ngân hàng phá sản do mất vốn trong các nghiệp vụ đầu tư biến phiếu như những kén nợ chằng chịt mà bên trong bị ung thối cỡ nào thì chẳng ai biết. Trước hết, ta sẽ phải đi lại từ đầu để nói về khái niệm đầu tư và đầu cơ.

- Đầu tư là khi mình nhịn tiêu thụ và dùng tài sản đó cho một việc khác với kỳ vọng có lời cao hơn sau này, nhưng cũng với rủi ro là có thể bị lỗ. Trong hoạt động đầu tư ấy, có loại khí cụ có thể đem lại mức lời rất cao nhưng cũng với rủi ro rất nặng, khi ấy, người ta gọi là đầu cơ hay "spéculation". Thuần về kinh tế, đầu cơ chỉ là đầu tư và không hàm ý xấu xa về đạo đức mà thật ra cũng khác với nạn tích trữ mà người Việt chúng ta thường nghĩ.

- Chuyện thứ hai là trong nghiệp vụ đầu cơ, người ta có hai phe hai vế là người mua và kẻ bán, và mối lời của người này là khoản lỗ của người kia theo quy luật tôi xin tạm gọi là "hơn bù kém" hay "jeu à somme nulle", nói theo tiếng Pháp. Điều ấy có khác với đầu tư sản xuất là khi người mua kẻ bán đều có lợi. Vì vậy, những người nhập cuộc đầu cơ đều phải ý thức được sự rủi ro nằm trong bản chất của nghiệp vụ, chính quyền chỉ có thể giám sát để bảo đảm tính chất bình đẳng và trong sáng minh bạch của luật chơi. Nhưng ngay từ đó mình cũng thấy nổi cộm một quy luật là "có ăn có chịu", khi lỗ thì đừng đòi chính quyền hay ai đó nhảy ra chuộc nợ cho mình.

RFI: Anh quả là rất kỹ khi phân tích quy luật căn bản của luật chơi này trên các thị trường đầu cơ tài chính. Bây giờ mình bước vào cuộc thì sự thể diễn tiến thế nào?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin phép là vẫn nói về căn bản của luật chơi trong thị trường đầu tư hay đầu cơ tài chính.

- Thí dụ như trên thị trường cổ phiếu, ngần ấy tác nhân hay nhà đầu tư đều nhập cuộc và mua hay bán cổ phần của các công ty được công khai niêm yết trên thị trường. Trong loại đầu cơ về "biến phiếu" thì ta có hoàn cảnh khác là đôi bên thỏa thuận riêng với nhau về những giao kết, người ta gọi đó là giao dịch qua quầy, "over the counter" hay "gré à gré".

- Tôi xin lấy một thí dụ cho dễ hiểu là khi mình... bước vào sòng bạc vì thật ra đầu cơ như vậy cũng chỉ là một cách đánh bạc hay cá độ! Hai người có thể đánh bạc đánh cá với nhau và ở giữa là một kẻ vô can chỉ có nhiệm vụ chia bài và ăn tiền sầu, ăn hoa hồng. Nhưng người ta cũng có thể đánh bạc hay đánh cá với chủ sòng, là nhà cái, khi ấy thì tương quan đã bất lợi cho con bạc.

- Hai ngân hàng có thể giao dịch với nhau trên thị trường song phương theo lối lời thì ăn, lỗ thì chịu chứ không thể bắt nhà nước tức là dân thọ thuế chi tiền cấp cứu khi họ phá sản. Nhưng nếu ngân hàng lại thủ vai nhà cái với những lá bài do họ xào nấu trong tay áo, là vấn đề đang bị điều tra trong vụ lãi suất Libor, thì các con bạc là giới đầu cơ sẽ bị thiệt hại.

- Đấy là chuyện thiếu minh bạch và bình đẳng trong luật chơi. Khi lãi suất này lại ảnh hưởng đến mấy trăm ngàn tỷ đô la của các thị trường tài chính quốc tế thì vấn đề thành nghiêm trọng vì có thể đánh sụp cả nền kinh tế. Bây giờ ta mới bước qua các loại hình giao dịch biến phiếu hay "dérivatifs" được trao đổi theo kiểu song phương, qua quầy, giữa người mua với kẻ bán.

RFI: Thưa anh, họ mua những gì hay bán những gì và tính toán thế nào về triển vọng sinh lời?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin nói riêng về một loại trong nhiều loại đầu tư như vậy, đó là hợp đồng giao dịch ngoại tệ hay "swap de devise" mà cô hỏi hồi nãy. Xin lại đi từ căn bản.

- Trong luồng giao dịch ngoại thương giữa các nước, người ta cần tới ngoại tệ, là đơn vị tiền tệ của một xứ khác. Mà giá trị của ngoại tệ này có thể lên hay xuống khi so với một đồng tiền khác. Như vậy, làm sao giảm thiểu rủi ro trong tương lai là khi ta cần một ngoại tệ nào đó để thanh toán nghiệp vụ xuất nhập cảng hay vay mượn của mình? Nhu cầu khách quan ấy mới dẫn đến sự xuất hiện của những người môi giới, trung gian. Họ ký sẵn hợp đồng bảo đảm sẽ cung cấp loại ngoại tệ này theo một hối suất hay tỷ giá nào đó với hy vọng kiếm lời hoặc rủi ro bị lỗ.

- Vì thế, những người môi giới này mới có trong tay một nắm hợp đồng mua hay bán của nhiều loại ngoại tệ và cũng có nhu cầu giảm thiểu rủi ro trong tương lai. Họ gặp nhau trên thị trường giao dịch ngoại tệ và thủ thân bằng loại hợp đồng hoán đổi ký kết với nhau. Hợp đồng ấy quy định việc trao đổi hai khoản nợ của hai loại ngoại tệ. Trong khoản nợ này ta có phần vốn và phần lời, tức là lãi suất. Đến kỳ hạn thì người ta có thể thanh thỏa một khoản nợ bằng một khoản nợ khác, của một ngoại tệ khác. Nghĩa là người ta thỏa thuận mua bán với nhau hai tờ giấy nợ và trị giá tương lai của giấy nợ đó chính là tiền lời, là lãi suất.


RFI: Quả là một chuyện quá sức phức tạp thưa anh. Nhưng sự hữi ích của lối đầu tư này là gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ta hãy mới lùi lại mà nhìn trên toàn cảnh. Các doanh nghiệp xuất nhập cảng cần ngoại tệ để giải quyết nhu cầu buôn bán của họ và có thể bị rủi ro hối đoái. Môt công ty Anh cần đồng Yen Nhật để thanh toán việc mua bán với doanh nghiệp Nhật, trong khi một công ty Nhật lại cần đồng Bảng của Anh và cả hai đều có thể bị rủi ro nếu hai ngoại tệ này lên hay xuống giá bất ngờ. Họ bèn san sẻ và giảm thiểu rủi ro ấy nhờ các tay trung gian đang làm nghiệp vụ đầu cơ ngoại tệ với nhau.

- Các tay đầu cơ này bước vào canh bạc với hy vọng tìm ra hợp đồng vay mượn ngoại tệ rẻ nhất và với nhu cầu phòng ngừa biến động thái quá trên thị trường ngoại hối. Trong tính toán đó mới có nghiệp vụ đầu tư "đối xung", là đóng chốt ở hai đầu đối nghịch, khi ký một hợp đồng dự báo là ngoại tệ này hay lãi suất này sẽ lên giá cùng với một hợp đồng trái ngược.

- Chuyện này chưa đủ phức tạp đâu vì không chỉ có những kẻ đầu cơ bị lỗ khi tính sai mà còn có nạn lạm dụng như trường hợp Chính quyền Hy Lạp đã nhờ tập đoàn đầu tư tài chính Mỹ là Goldman Sachs huy động cho một khoản nợ trị giá một tỷ đô la trên thị trường giao dịch ngoại hối loại này vào năm 2002, với gian ý là không bút ghi nghiệp vụ vay mượn trong bảng tổng kết tài sản của quốc gia. Tức là có khách nợ đã gian lận nhờ sự đồng lõa của một ngân hàng đầu tư thuộc loại đại gia quốc tế. Đến khi Hy Lạp vỡ nợ thì bắt đền ai? Cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ năm 2008 và tại Âu Châu ngày nay có liên hệ đến hình thái đầu tư tinh vi và phức tạp ấy.

RFI: Anh cứ lần lượt mở ra từng mối của mớ bòng bong rắc rối này, như vậy, câu hỏi mà thính giả thắc mắc là nhiều ngân hàng đã trục lợi phi pháp và nhiều chính quyền đã nhờ ngân hàng giúp mình gian lận. Thế thì ai được và ai thua ở trong canh bạc phải nói là rất quái đản này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa là chưa đủ quái đản đâu vì trong cuộc còn có một nhà cái khác là các chính quyền.

- Xin hãy nói về trường hợp Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp Mỹ như Lehman Brothers hay AIG đã lấy rủi ro rất lớn mà chính họ cũng không ước đoán được khi bước vào thị trường đầu cơ này. Mỗi khi mua hay bán họ đều ăn hoa hồng và cứ thế mà đẩy kén nợ thối như một cục than hồng vào tay người khác. Trong khi ấy, về cơ bản thì vốn pháp định của họ không đủ trang trải rủi ro. Khi thị trường hốt hoảng bán tháo các kén nợ thối ấy, các doanh nghiệp tài chính này mới vỡ nợ.

- Nếu mà để các đại gia đó vỡ nợ thì tai họa sẽ lan rộng ra các ngành nghề và cả nền kinh tế nên chính quyền mới phải cân nhắc và quyết định nhảy vào tung tiền chuộc nợ. Tiền ấy từ ngân sách quốc gia tức là tiền thuế của dân. Như vậy, các đại gia cứ làm bậy với nhau và ăn hoa hồng hoặc ăn lương rất cao, khi có chuyện thì nhà nước nhảy vào và dân đen bị thiệt. Bây giờ ta mới nói chuyện về nhà cái kia, tức là nhà nước.

RFI: Nghĩa là anh cho rằng nhà nước thật ra cũng chẳng là vô can?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng đúng như vậy. Thí dụ như 70 năm trước, Hoa Kỳ có đạo luật tài chính gọi là Glass-Steagall với nội dung phân biệt các ngân hàng đầu tư kinh doanh bằng vốn riêng với các ngân hàng thương mại có chức năng huy động ký thác trong dân chúng.

- Lý do phân biệt là để có hai hệ thống thanh tra khác nhau và nhất là để ngăn ngừa việc ngân hàng thương mại lấy tiền ký thác của thiên hạ mà đi đầu cơ khiến các trương chủ ký thác có thể mất vốn nếu ngân hàng vỡ nợ. Năm 1999, Chính quyền Tổng thống Bill Clinton và Quốc hội bên đảng Dân Chủ thu hồi đạo luật này và đấy là một trong nhiều nguyên nhân khiến ngân hàng thương mại cũng đi làm nghiệp vụ đầu tư bằng tiền của người khác và gây rủi ro cho công chúng. Vụ khủng hoảng năm 2008 phần nào xuất phát từ chính sách giải toả này.

- Chuyện thứ hai là Hoa Kỳ có hai đại gia trong thị trường thế chấp tín dụng gia cư là Fannie May và Freddie Mac. Hai doanh nghiệp này thuộc loại bán công, do nhà nước bảo trợ để nói là giúp dân nghèo dễ có cơ hội mua nhà. Nhưng cả hai đều bành trướng rất mạnh và chiếm phân nửa thị phần tín dụng gia cư mà lại tích lũy những rủi ro rất lớn.

- Năm 2005, Chính quyền George W. Bush mới đề nghị tăng cường kiểm soát hai định chế này, nhưng lại bị Quốc hội trong tay đảng Dân Chủ cản trở. Lý do là hai cơ quan này chi tiền rất nhiều cho đảng Dân Chủ, và giới lãnh đạo của họ cũng là viên chức cao cấp trong Chính quyền Clinton. Kết cuộc là hai cơ sở này vỡ nợ, gây họa cho cả nước và phải được châm tiền cấp cứu.

- Sau đó, là chuyện thứ ba, người ta quên hoặc cố tình quên như đã cố tình quên về những rủi ro của lãi suất Libor mà tri hô rằng phải tăng cường kiểm soát các ngân hàng để tránh lạm dụng. Một Nghị sĩ Dân Chủ đã được tiền yểm trợ của Fannie Mae và Freddie Mac và bảo vệ hai cơ sở ấy đến tận cùng sau khi dính líu rất sâu với các tổ hợp tài chính bị khủng hoảng cũng là người đồng soạn thảo đạo luật kiểm soát này. Với kết quả là các đại gia ngân hàng còn tập trung tài sản nhiều hơn trước, có thế lực hơn trước, trong khi các ngân hàng nhỏ thì chết ngộp dưới hệ thống kiểm soát. Đạo luật kiểm soát có tên là Dodd-Frank bị chỉ trích từ cả hai phía là bên Dân Chủ thì đòi kiểm soát nhiều hơn, bên Cộng Hoà thì cho là kiểm soát quá đáng!

RFI: Câu hỏi cuối thưa anh, là người ta nên kết luận thế nào và giải quyết ra sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng câu kết luận cho vấn đề rắc rối này gồm có hai phần.

- Thứ nhất, trên thị trường đầu tư chứng khoán, thí dụ như mua bán cổ phiếu, mọi sự đều công khai với luật lệ minh bạch và quần chúng đầu tư biết rõ về rủi ro của mình. Thứ hai là trong thị trường "biến phiếu" như "swap de devises" hay trao đổi ngoại tệ thì chỉ có hai phe đánh bạc với nhau nên thiên hạ cứ tưởng rằng người ngoài là vô can nên được vô sự. Thật ra, thị trường đó thiếu minh bạch và có rủi ro rất lớn mà ít ai tính ra. Một tổ hợp tài chính lớn như JPMorgan của Mỹ vừa mất sáu tỷ đô la cho loại đầu tư ấy mà giờ này vẫn chưa biết tại sao.

- Cho nên, nếu người ta không có nỗ lực công khai hóa phương pháp ước tính và thủ tục đầu tư thì cũng lại tích lũy những yếu tố khủng hoảng trong tương lai. Vì thế mà có lẽ người ta không nên lập thêm một vòng kiểm soát đồng hạng như đạo luật Dodd-Frank mà phải cải cách riêng hệ thống đầu tư biến phiếu để chấm dứt tình trạng giao dịch qua quầy rất mờ ảo. Nghĩa là phải có quy chế minh bạch như trên thị trường cố phiếu và chứng khoán. Chính là sự minh bạch mới giảm thiểu rủi ro và lạm dụng.

RFI: Đài Phát thanh Quốc tế Pháp xin cảm ta chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa trả lời từ Hoa Kỳ.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đến nay, đối với đồng bào ở trong nước và cộng đồng người Việt ở hải ngoại kể từ 30-4-1975, sau 45 năm, những ngày ấy, những năm tháng ấy, không bom đạn trên đầu, nhưng sao trong lòng của mỗi chúng ta cứ lo âu, xao xuyến, sục sôi những chuyển đổi. Không sục sôi chuyển đổi sao được, những tiến bộ Khoa học Công nghệ 4.0, nhất là sự tiến bộ của điện toán, của hệ thống truyền thông, thông tin vượt tất cả mọi kiểm soát, vượt mọi tường lửa, thế giới phô bày trước mắt loài người, trước mặt 90 triệu đồng bào Việt Nam, những cái hay cũng như những cái dỡ của nó một cách phũ phàng.
“Bà X khoảng bốn mươi tuổi, hiện đang sống với chồng và con gái trong một căn nhà do chính họ làm chủ, ở California. Bà nói thông thạo hai thứ tiếng: Anh và Việt. Phục sức giản dị, trông buồn bã và lo lắng, bà X tuy dè dặt nhưng hoàn toàn thành thật khi trả lời mọi câu hỏi được đặt ra. “Bà rời khỏi Việt Nam vào năm 1980, khi còn là một cô bé, cùng với chị và anh rể. Ghe bị cướp ba lần, trong khi lênh đênh trong vịnh Thái Lan. Chị bà X bị hãm hiếp ngay lần thứ nhất. Khi người anh của bà X xông vào cứu vợ, ông bị đập búa vào đầu và xô xuống biển. Lần thứ hai, mọi chuyện diễn tiến cũng gần như lần đầu. Riêng lần cuối, khi bỏ đi, đám hải tặc còn bắt theo theo mấy thiếu nữ trẻ nhất trên thuyền. Chị bà X là một trong những người này.
Tìm được ý nghĩa thực của phương trình từ năm 2012 nhưng không dám công bố vì còn kẹt một bí mật cuối cùng, loay hoay nghiên cứu, tìm tòi hàng năm không giải nổi. Nó nằm trong chữ C² (C bình phương) – bình phương tốc độ ánh sáng. Vật chất chỉ cần chuyển động nhanh bằng (C), tốc độ ánh sáng, là biến thành năng lượng rồi, còn sót cái gì để mà đòi bay nhanh hơn? – C+1 đã là dư. C nhân hai, nhân ba là dư quá lố, vậy mà ở đây còn dư kinh hồn hơn, là c bình phương lận – c nhân với c (186,282 x 186,282) nghĩa là khoảng 34,700,983,524 dặm/ giây!
Sau trận Phước Long 6/1/1975, Hoa Kỳ im lặng, Ủy ban Quốc tế Kiểm soát và Giám sát Đình chiến bất lực, cuộc chiến đã đến hồi chấm dứt. Ngày 10/3/1975, Thị xã Ban Mê Thuột bị tấn công thất thủ sau hai ngày chống cự, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân, cao nguyên Trung phần lọt vào tay cộng sản. Ngày 8/3/1975, quân Bắc Việt bắt đầu tấn công vào Quảng Trị, Quảng Trị mất, rồi các tỉnh miền Trung lần lượt mất theo.
Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình.Các con cần phải học, học và học… Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất hứa.
Tháng Tư lại trở về, gợi nhớ đến ngày cuối cùng, lúc toàn miền Nam rơi vào tay đoàn quân xâm lược từ phương bắc, lần này là lần thứ 45! Trong ký ức của mỗi người dân miền Nam chúng ta, có biết bao nhiêu khúc phim lại được dịp hiển hiện, rõ ràng và linh động như vừa mới hôm qua. Có người nhớ đến cảnh hỗn loạn ở phi trường Tân Sơn Nhất, có người không sao quên được những năm tháng tù tội trong trại giam cộng sản, có người nghẹn ngào ôn lại cảnh gia đình ly tán trong những ngày kinh hoàng đó, và có biết bao người còn ghi khắc mãi những ngày lênh đênh trên sóng nước mịt mù hay băng qua rừng sâu núi thẳm để tìm đến bến bờ tự do.
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” của nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm! Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai. Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn – vào năm 1960 – khi vừa mới biết cầm tiền? Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá được bào nhỏ nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản – hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát – đủ để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi
Chiến tranh Việt Nam có hai chiến trường: Đông Dương và Mỹ. Bắc Việt cố gắng kéo dài cuộc chiến trên chiến trường Việt Nam và đồng thời làm mệt mỏi công luận trên chiến trường Mỹ. Đứng trườc chiến lược này và kế thừa một di sản là sức mạnh quân sự, các tình trạng tổn thất và phản chiến đang gia tăng, Tổng thống Nixon cân nhắc mọi khả năng trong chính sách. Nixon quyết định chỉnh đốn các trận địa chiến cho miền Nam Việt Nam trong khi củng cố khả năng chiến đấu cho họ. Sự giảm bớt vai trò của chúng ta sẽ hỗ trợ cho công luận trong nước Mỹ. Trong thời gian này, Nixon cũng để cho Kissinger tổ chức mật đàm càng nhanh càng tốt.
Bất kỳ chiến lược nào để giảm bớt mối đe dọa từ các chính sách xâm lược của Trung Quốc phải dựa trên sự đánh giá thực tế về mức tác động đòn bẩy của Hoa Kỳ và của các cường quốc bên ngoài khác đối với sự tiến hóa bên trong nội bộ Trung Quốc. Ảnh hưởng của những thế lực bên ngoài đó có giới hạn về cấu trúc, bởi vì đảng sẽ không từ bỏ các hoạt động mà họ cho là quan trọng để duy trì sự kiểm soát. Nhưng chúng ta quả thực lại có những khí cụ quan trọng, những khí cụ này hoàn toàn nằm ngoài sức mạnh quân sự và chính sách thương mại. Điều ấy là những phẩm chất “Tự do của người Tây phương” mà người Trung Quốc coi là điểm yếu, thực sự là những sức mạnh. Tự do trao đổi thông tin, tự do trao đổi ý tưởng là một lợi thế cạnh tranh phi thường, một động cơ tuyệt vời của sự cách tân và thịnh vượng. (Một lý do mà Đài Loan được xem là mối đe dọa đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, chính là vì nó cung cấp một ví dụ với quy mô tuy nhỏ nhưng lại hùng hồn về sự thành công của hệ thống chính trị và kin
Nửa tháng trước hiệp định Genève (20-7-1954), trong cuộc họp tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Cộng), từ 3 đến 5-7-1954, thủ tướng Trung Cộng Châu Ân Lai khuyên Hồ Chí Minh (HCM) chôn giấu võ khí và cài cán bộ, đảng viên cộng sản (CS) ở lại Nam Việt Nam (NVN) sau khi đất nước bị chia hai để chuẩn bị tái chiến. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, Dương Danh Dy dịch, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt".) (Nguồn: Internet). Hồ Chí Minh đồng ý.
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.