Hôm nay,  

Yêu Cầu Minh Bạch Trong Giao Dịch Tài Chính Quốc Tế

22/08/201200:00:00(Xem: 17909)
Thuần về kinh tế, đầu cơ chỉ là đầu tư và không hàm ý xấu xa về đạo đức mà thật ra cũng khác với nạn tích trữ...

Trong một chương trình trước, khi trình bày bối cảnh của vụ tai tiếng về lãi suất Libor, chúng ta có thấy ra một yêu cầu khách quan của các thị trường tài chính. Đấy là sự minh bạch và bình đẳng của mọi người ở trong cuộc, như các ngân hàng và giới đầu tư. Vụ khủng hoảng về lãi suất Libor bùng nổ vì một số ngân hàng lại ở vào vị trí ưu đãi là đưa ra những con số thiếu xác thực về lãi suất nên có thể trục lợi bất chính. Vì vậy, họ đang bị điều tra và truy tố. Xuyên qua vụ tai tiếng ấy, người ta còn thấy ra một thực tế là các ngân hàng có thể là thiểu số chiếm ưu thế và gây thiệt hại cho đại đa số những người còn lại.

Chính là cảm nghĩ chung của mọi người về tình trạng bất công ấy mới khiến dư luận nói đến "thiểu số 1%" các đại gia cự phú đã cùng nhau chia chác quyền lợi trên đầu trên cổ của đa số còn lại. Nhưng thuần về kinh tế thì sự thể diễn tiến thế nào, nhất là với loại hình đầu tư cực kỳ phức tạp như các "biến phiếu" hay "dérivatifs" mà chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa đã đề cập trong một chương trình trước.

Kỳ này, chúng ta sẽ tìm hiểu thêm về chuyện đó qua cuộc phỏng vấn sau đây....

RFI: Xin kính chào anh Nghĩa. Thưa anh, như đã hẹn kỳ trước khi chúng ta phân tích vụ tai tiếng Libor, tuần này ta sẽ cùng trao đổi về loại hình đầu tư "dérivatifs" rất phức tạp mà anh gọi là "biến phiếu". Thí dụ như loại "swap de devises" hay hợp đồng hoán đổi ngoại tệ mà người ta gọi theo Anh ngữ là "currency swap" hay nhiều loại đầu tư khác. Vấn đề đặt ra ở đây là trong môi trường đầu tư cực kỳ rắc rối ấy, có thể nào mà người đầu tư bị một thiểu số là các ngân hàng bóc lột một cách bất chính hay không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thấy rằng đề tài này rất hấp dẫn và cần thiết ở hai khía cạnh.

- Thứ nhất là về đạo tắc, hay quy tắc đạo đức, khi mà một thiểu số lại có ưu thế về thông tin hơn đa số còn lại thì nhà nước có cách nào giải trừ hay ngăn ngừa được không? Thứ hai là về thực tế vì vụ khủng hoảng tài chính bùng nổ năm 2008 chính là từ các ngân hàng phá sản do mất vốn trong các nghiệp vụ đầu tư biến phiếu như những kén nợ chằng chịt mà bên trong bị ung thối cỡ nào thì chẳng ai biết. Trước hết, ta sẽ phải đi lại từ đầu để nói về khái niệm đầu tư và đầu cơ.

- Đầu tư là khi mình nhịn tiêu thụ và dùng tài sản đó cho một việc khác với kỳ vọng có lời cao hơn sau này, nhưng cũng với rủi ro là có thể bị lỗ. Trong hoạt động đầu tư ấy, có loại khí cụ có thể đem lại mức lời rất cao nhưng cũng với rủi ro rất nặng, khi ấy, người ta gọi là đầu cơ hay "spéculation". Thuần về kinh tế, đầu cơ chỉ là đầu tư và không hàm ý xấu xa về đạo đức mà thật ra cũng khác với nạn tích trữ mà người Việt chúng ta thường nghĩ.

- Chuyện thứ hai là trong nghiệp vụ đầu cơ, người ta có hai phe hai vế là người mua và kẻ bán, và mối lời của người này là khoản lỗ của người kia theo quy luật tôi xin tạm gọi là "hơn bù kém" hay "jeu à somme nulle", nói theo tiếng Pháp. Điều ấy có khác với đầu tư sản xuất là khi người mua kẻ bán đều có lợi. Vì vậy, những người nhập cuộc đầu cơ đều phải ý thức được sự rủi ro nằm trong bản chất của nghiệp vụ, chính quyền chỉ có thể giám sát để bảo đảm tính chất bình đẳng và trong sáng minh bạch của luật chơi. Nhưng ngay từ đó mình cũng thấy nổi cộm một quy luật là "có ăn có chịu", khi lỗ thì đừng đòi chính quyền hay ai đó nhảy ra chuộc nợ cho mình.

RFI: Anh quả là rất kỹ khi phân tích quy luật căn bản của luật chơi này trên các thị trường đầu cơ tài chính. Bây giờ mình bước vào cuộc thì sự thể diễn tiến thế nào?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin phép là vẫn nói về căn bản của luật chơi trong thị trường đầu tư hay đầu cơ tài chính.

- Thí dụ như trên thị trường cổ phiếu, ngần ấy tác nhân hay nhà đầu tư đều nhập cuộc và mua hay bán cổ phần của các công ty được công khai niêm yết trên thị trường. Trong loại đầu cơ về "biến phiếu" thì ta có hoàn cảnh khác là đôi bên thỏa thuận riêng với nhau về những giao kết, người ta gọi đó là giao dịch qua quầy, "over the counter" hay "gré à gré".

- Tôi xin lấy một thí dụ cho dễ hiểu là khi mình... bước vào sòng bạc vì thật ra đầu cơ như vậy cũng chỉ là một cách đánh bạc hay cá độ! Hai người có thể đánh bạc đánh cá với nhau và ở giữa là một kẻ vô can chỉ có nhiệm vụ chia bài và ăn tiền sầu, ăn hoa hồng. Nhưng người ta cũng có thể đánh bạc hay đánh cá với chủ sòng, là nhà cái, khi ấy thì tương quan đã bất lợi cho con bạc.

- Hai ngân hàng có thể giao dịch với nhau trên thị trường song phương theo lối lời thì ăn, lỗ thì chịu chứ không thể bắt nhà nước tức là dân thọ thuế chi tiền cấp cứu khi họ phá sản. Nhưng nếu ngân hàng lại thủ vai nhà cái với những lá bài do họ xào nấu trong tay áo, là vấn đề đang bị điều tra trong vụ lãi suất Libor, thì các con bạc là giới đầu cơ sẽ bị thiệt hại.

- Đấy là chuyện thiếu minh bạch và bình đẳng trong luật chơi. Khi lãi suất này lại ảnh hưởng đến mấy trăm ngàn tỷ đô la của các thị trường tài chính quốc tế thì vấn đề thành nghiêm trọng vì có thể đánh sụp cả nền kinh tế. Bây giờ ta mới bước qua các loại hình giao dịch biến phiếu hay "dérivatifs" được trao đổi theo kiểu song phương, qua quầy, giữa người mua với kẻ bán.

RFI: Thưa anh, họ mua những gì hay bán những gì và tính toán thế nào về triển vọng sinh lời?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin nói riêng về một loại trong nhiều loại đầu tư như vậy, đó là hợp đồng giao dịch ngoại tệ hay "swap de devise" mà cô hỏi hồi nãy. Xin lại đi từ căn bản.

- Trong luồng giao dịch ngoại thương giữa các nước, người ta cần tới ngoại tệ, là đơn vị tiền tệ của một xứ khác. Mà giá trị của ngoại tệ này có thể lên hay xuống khi so với một đồng tiền khác. Như vậy, làm sao giảm thiểu rủi ro trong tương lai là khi ta cần một ngoại tệ nào đó để thanh toán nghiệp vụ xuất nhập cảng hay vay mượn của mình? Nhu cầu khách quan ấy mới dẫn đến sự xuất hiện của những người môi giới, trung gian. Họ ký sẵn hợp đồng bảo đảm sẽ cung cấp loại ngoại tệ này theo một hối suất hay tỷ giá nào đó với hy vọng kiếm lời hoặc rủi ro bị lỗ.

- Vì thế, những người môi giới này mới có trong tay một nắm hợp đồng mua hay bán của nhiều loại ngoại tệ và cũng có nhu cầu giảm thiểu rủi ro trong tương lai. Họ gặp nhau trên thị trường giao dịch ngoại tệ và thủ thân bằng loại hợp đồng hoán đổi ký kết với nhau. Hợp đồng ấy quy định việc trao đổi hai khoản nợ của hai loại ngoại tệ. Trong khoản nợ này ta có phần vốn và phần lời, tức là lãi suất. Đến kỳ hạn thì người ta có thể thanh thỏa một khoản nợ bằng một khoản nợ khác, của một ngoại tệ khác. Nghĩa là người ta thỏa thuận mua bán với nhau hai tờ giấy nợ và trị giá tương lai của giấy nợ đó chính là tiền lời, là lãi suất.


RFI: Quả là một chuyện quá sức phức tạp thưa anh. Nhưng sự hữi ích của lối đầu tư này là gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ta hãy mới lùi lại mà nhìn trên toàn cảnh. Các doanh nghiệp xuất nhập cảng cần ngoại tệ để giải quyết nhu cầu buôn bán của họ và có thể bị rủi ro hối đoái. Môt công ty Anh cần đồng Yen Nhật để thanh toán việc mua bán với doanh nghiệp Nhật, trong khi một công ty Nhật lại cần đồng Bảng của Anh và cả hai đều có thể bị rủi ro nếu hai ngoại tệ này lên hay xuống giá bất ngờ. Họ bèn san sẻ và giảm thiểu rủi ro ấy nhờ các tay trung gian đang làm nghiệp vụ đầu cơ ngoại tệ với nhau.

- Các tay đầu cơ này bước vào canh bạc với hy vọng tìm ra hợp đồng vay mượn ngoại tệ rẻ nhất và với nhu cầu phòng ngừa biến động thái quá trên thị trường ngoại hối. Trong tính toán đó mới có nghiệp vụ đầu tư "đối xung", là đóng chốt ở hai đầu đối nghịch, khi ký một hợp đồng dự báo là ngoại tệ này hay lãi suất này sẽ lên giá cùng với một hợp đồng trái ngược.

- Chuyện này chưa đủ phức tạp đâu vì không chỉ có những kẻ đầu cơ bị lỗ khi tính sai mà còn có nạn lạm dụng như trường hợp Chính quyền Hy Lạp đã nhờ tập đoàn đầu tư tài chính Mỹ là Goldman Sachs huy động cho một khoản nợ trị giá một tỷ đô la trên thị trường giao dịch ngoại hối loại này vào năm 2002, với gian ý là không bút ghi nghiệp vụ vay mượn trong bảng tổng kết tài sản của quốc gia. Tức là có khách nợ đã gian lận nhờ sự đồng lõa của một ngân hàng đầu tư thuộc loại đại gia quốc tế. Đến khi Hy Lạp vỡ nợ thì bắt đền ai? Cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ năm 2008 và tại Âu Châu ngày nay có liên hệ đến hình thái đầu tư tinh vi và phức tạp ấy.

RFI: Anh cứ lần lượt mở ra từng mối của mớ bòng bong rắc rối này, như vậy, câu hỏi mà thính giả thắc mắc là nhiều ngân hàng đã trục lợi phi pháp và nhiều chính quyền đã nhờ ngân hàng giúp mình gian lận. Thế thì ai được và ai thua ở trong canh bạc phải nói là rất quái đản này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa là chưa đủ quái đản đâu vì trong cuộc còn có một nhà cái khác là các chính quyền.

- Xin hãy nói về trường hợp Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp Mỹ như Lehman Brothers hay AIG đã lấy rủi ro rất lớn mà chính họ cũng không ước đoán được khi bước vào thị trường đầu cơ này. Mỗi khi mua hay bán họ đều ăn hoa hồng và cứ thế mà đẩy kén nợ thối như một cục than hồng vào tay người khác. Trong khi ấy, về cơ bản thì vốn pháp định của họ không đủ trang trải rủi ro. Khi thị trường hốt hoảng bán tháo các kén nợ thối ấy, các doanh nghiệp tài chính này mới vỡ nợ.

- Nếu mà để các đại gia đó vỡ nợ thì tai họa sẽ lan rộng ra các ngành nghề và cả nền kinh tế nên chính quyền mới phải cân nhắc và quyết định nhảy vào tung tiền chuộc nợ. Tiền ấy từ ngân sách quốc gia tức là tiền thuế của dân. Như vậy, các đại gia cứ làm bậy với nhau và ăn hoa hồng hoặc ăn lương rất cao, khi có chuyện thì nhà nước nhảy vào và dân đen bị thiệt. Bây giờ ta mới nói chuyện về nhà cái kia, tức là nhà nước.

RFI: Nghĩa là anh cho rằng nhà nước thật ra cũng chẳng là vô can?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng đúng như vậy. Thí dụ như 70 năm trước, Hoa Kỳ có đạo luật tài chính gọi là Glass-Steagall với nội dung phân biệt các ngân hàng đầu tư kinh doanh bằng vốn riêng với các ngân hàng thương mại có chức năng huy động ký thác trong dân chúng.

- Lý do phân biệt là để có hai hệ thống thanh tra khác nhau và nhất là để ngăn ngừa việc ngân hàng thương mại lấy tiền ký thác của thiên hạ mà đi đầu cơ khiến các trương chủ ký thác có thể mất vốn nếu ngân hàng vỡ nợ. Năm 1999, Chính quyền Tổng thống Bill Clinton và Quốc hội bên đảng Dân Chủ thu hồi đạo luật này và đấy là một trong nhiều nguyên nhân khiến ngân hàng thương mại cũng đi làm nghiệp vụ đầu tư bằng tiền của người khác và gây rủi ro cho công chúng. Vụ khủng hoảng năm 2008 phần nào xuất phát từ chính sách giải toả này.

- Chuyện thứ hai là Hoa Kỳ có hai đại gia trong thị trường thế chấp tín dụng gia cư là Fannie May và Freddie Mac. Hai doanh nghiệp này thuộc loại bán công, do nhà nước bảo trợ để nói là giúp dân nghèo dễ có cơ hội mua nhà. Nhưng cả hai đều bành trướng rất mạnh và chiếm phân nửa thị phần tín dụng gia cư mà lại tích lũy những rủi ro rất lớn.

- Năm 2005, Chính quyền George W. Bush mới đề nghị tăng cường kiểm soát hai định chế này, nhưng lại bị Quốc hội trong tay đảng Dân Chủ cản trở. Lý do là hai cơ quan này chi tiền rất nhiều cho đảng Dân Chủ, và giới lãnh đạo của họ cũng là viên chức cao cấp trong Chính quyền Clinton. Kết cuộc là hai cơ sở này vỡ nợ, gây họa cho cả nước và phải được châm tiền cấp cứu.

- Sau đó, là chuyện thứ ba, người ta quên hoặc cố tình quên như đã cố tình quên về những rủi ro của lãi suất Libor mà tri hô rằng phải tăng cường kiểm soát các ngân hàng để tránh lạm dụng. Một Nghị sĩ Dân Chủ đã được tiền yểm trợ của Fannie Mae và Freddie Mac và bảo vệ hai cơ sở ấy đến tận cùng sau khi dính líu rất sâu với các tổ hợp tài chính bị khủng hoảng cũng là người đồng soạn thảo đạo luật kiểm soát này. Với kết quả là các đại gia ngân hàng còn tập trung tài sản nhiều hơn trước, có thế lực hơn trước, trong khi các ngân hàng nhỏ thì chết ngộp dưới hệ thống kiểm soát. Đạo luật kiểm soát có tên là Dodd-Frank bị chỉ trích từ cả hai phía là bên Dân Chủ thì đòi kiểm soát nhiều hơn, bên Cộng Hoà thì cho là kiểm soát quá đáng!

RFI: Câu hỏi cuối thưa anh, là người ta nên kết luận thế nào và giải quyết ra sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng câu kết luận cho vấn đề rắc rối này gồm có hai phần.

- Thứ nhất, trên thị trường đầu tư chứng khoán, thí dụ như mua bán cổ phiếu, mọi sự đều công khai với luật lệ minh bạch và quần chúng đầu tư biết rõ về rủi ro của mình. Thứ hai là trong thị trường "biến phiếu" như "swap de devises" hay trao đổi ngoại tệ thì chỉ có hai phe đánh bạc với nhau nên thiên hạ cứ tưởng rằng người ngoài là vô can nên được vô sự. Thật ra, thị trường đó thiếu minh bạch và có rủi ro rất lớn mà ít ai tính ra. Một tổ hợp tài chính lớn như JPMorgan của Mỹ vừa mất sáu tỷ đô la cho loại đầu tư ấy mà giờ này vẫn chưa biết tại sao.

- Cho nên, nếu người ta không có nỗ lực công khai hóa phương pháp ước tính và thủ tục đầu tư thì cũng lại tích lũy những yếu tố khủng hoảng trong tương lai. Vì thế mà có lẽ người ta không nên lập thêm một vòng kiểm soát đồng hạng như đạo luật Dodd-Frank mà phải cải cách riêng hệ thống đầu tư biến phiếu để chấm dứt tình trạng giao dịch qua quầy rất mờ ảo. Nghĩa là phải có quy chế minh bạch như trên thị trường cố phiếu và chứng khoán. Chính là sự minh bạch mới giảm thiểu rủi ro và lạm dụng.

RFI: Đài Phát thanh Quốc tế Pháp xin cảm ta chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa trả lời từ Hoa Kỳ.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.