Hôm nay,  

Nhật Ký Hành Hương 8: Điệu Sống Giữa Đường

9/19/201200:00:00(View: 12886)
Tháng Bảy Việt Nam đã vào Thu mà ở Mỹ thì tháng Tám vẫn còn mùa Hè; Cali cơm chiều thì Huế điểm tâm. Khái niệm thời gian và ngày tháng tưởng như là những quy ước khách quan nhưng thực tế nó co giãn theo con người và hoàn cảnh. Cũng tương tự như thế, các cuộc chơi mùa Hè như chạy bộ, leo núi, bơi thuyền, cắm trại ngoài trời... cuốn hút tuổi trẻ; nhưng tuổi già thì lắc đầu mệt mỏi.

Bé Na và nhóm bạn độc thân từ New York qua Pháp ghé làng Mai, về Cali... để học hỏi thêm về tôn giáo ở các thiền viện và học viện tôn giáo. Năm nào cũng vậy, nhóm trẻ nầy thường dành ra vài ba tuần “hành hương” để du lịch và tạo hoàn cảnh cho những sinh hoạt tinh thần với nhau. Căn nhà hơi bị rộng của chúng tôi ở Sacramento thời gian gần đây trở thành vắng vẻ vì con cháu cuối tuần mới tụ về chơi, nay lại vang vọng tiếng cười của Bé Na vã lũ bạn. Cái nhà chỉ là cái nhà, nhưng nó sẽ trở thành cái tổ ấm hay tổ trống khi có một nếp sinh hoạt động và tĩnh hài hòa. Người Mỹ về hưu vẫn thường e ngại cái tâm lý cô đơn, có khi hụt hẫng, về cái “tổ trống” (empty nest) khi con cái trưởng thành đều ra riêng. Tôi đem ý nghĩ này nói với tụi nhỏ. Andy lên tiếng:

- So, living the Middle Way is the best!

Bé Na liền dịch ra tiếng Việt để biểu diễn cái tài... Việt ngữ cho bố già của nó nghe chơi:

- Bởi vậy, “sống giữa đường” là tốt nhất!

Tôi bật cười vì nhóm chữ “sống giữa đường” sao nghe ra có vẻ bụi đời và giang hồ lãng tử quá. Nhưng nếu gọi là “sống đời trung đạo” thì lại dính mắc vào khái niệm Hán tự nhà Phật nghe ra khó hiểu cho tuổi trẻ và có vẻ to tát cho tuổi già quá.

Thấy bố già lắc đầu cười, bé Na được dịp cười theo khoái chí. Nó thì thầm vào tai bạn Sonya rồi nói cho cả nhóm đều nghe::

- Ba ơi, sư Chanda có lần giảng cho tụi con nghe về cái “Sống giữa đường” thật là vui và dễ hiểu. Sư nói rằng, trạng thái “Không” (emptiness) ví như hình ảnh cái đu khi đứng yên. Khi cái đu nằm yên ở chính giữa là trống không, là đang ở “Middle Way” (Trung đạo - giữa đường). Nó chẳng tạo ra một sự động đậy để bị dính hay bị đẩy về phía bên nào cả. Nhưng khi nó nhúc nhích chút xíu về phía bên phải thì liền sau đó phải nhúc nhích trả lại phía bên trái. Cái đu đưa qua phía trái mạnh chừng nào thì khi đập qua lại phía phải cũng mạnh như thế. Cái đu cũng như tâm con người ta. Nó vốn nằm yên lặng. Nó không nghiêng về bên phải hay bên trái. Cái đu đong đưa vì có người đẩy, vì loài vật đi ngang đụng vào, vì gió thổi đưa qua đưa lại, vì nhiều thứ khác nữa đó thôi. Những “conditions” (Duyên) từ đâu kéo tới làm cho cái đu không còn đứng “vô tư” nữa mà phải chuyển động lúc nhanh, lúc chậm; khi cao, khi thấp. Cả mùa Hè năm ngoái, sư Chanda tập cho tụi con “sống giữa đường” thích quá.

Nghe con nói hồn nhiên, tôi nghĩ thầm rằng, người ta vốn có thất tình lục dục: vui, buồn, thương, ghét trước mỗi hoàn cảnh mặn, nhạt, chua, cay, ngọt, bùi... mà sống theo đường trung đạo là sống làm sao đây. Khoảng thời gian tiếp theo, tôi không bàn thảo gì thêm mà thường im lặng xem các cháu có “sống kiểu giữa đường” không.

Sớm họp mặt đầu tiên, sau khi chúng nó cùng tập Yoga từ 5 giờ sáng trong thư viện gia đình thì họp nhau ở phòng ăn uống cà phê. Cả nhóm lại xoay qua đề tài được nói tới thường xuyên là những chuyện về tôn giáo. Nhóm bảy đứa thì đã có 5 tôn giáo khác nhau. Bé Na và Hạnh Chi: Phật, Thi: Chúa, Sony: Sikh, Hamas: Hindu (Ấn Độ giáo) và Andy: Judaism (Do Thái giáo). Chúng tôi thích thú nghe tuổi trẻ chúng nó nói về tôn giáo bằng đầu óc cởi mở, cảm nghĩ thân tình với lòng khao khát đi tìm cái mới để học hỏi và trân trọng nên không có thái độ khích bác hay kỳ thị tôn giáo của nhau. Trong các cuộc chuyện trò trao đổi, khi có một đứa nêu ý kiến về tôn giáo của mình thì cả nhóm chăm chú im lặng lắng nghe. Khi có “chiếc đu” nào động đậy dấy lên một đề tài dễ dàng đưa tới tranh luận, tôi lưu ý là những đứa khác trong nhóm bình thản chờ lắng nghe sự giải thích rạch ròi cho ra lẽ hơn là thắc mắc hay phê phán.

Hỏi làm sao để tạo ra một “điệu sống trung đạo” trong nhóm với nhau, Sony nói rằng, nhóm có“3 dos & 3 donts” (3 làm và 3 không làm) thật đơn giản. Ba điều nên làm là: Vui (happiness), An (tranquility), Hòa (harmony). Ba điều tránh là: Ác (cruel, Dối (lying), Hỗn (rude). Nhờ vậy mà các thành viên trong nhóm thương mến, vui vẻ và thành thật với nhau. Tránh phê phán để khỏi bị phê phán. Tránh dối trá để khỏi bị dối trá. Tránh nói lời hung dữ để khỏi nghe lại lời hung dữ.

Bé Na kể chuyện:

- Trước khi bay từ Paris về đây thăm Ba Mẹ, tụi con có tới dự buổi nói chuyện của Dr. Trịnh Xuân Thuận và thầy Thích Nhất Hạnh ở Xóm Hạ, Làng Mai. Tụi con thích lắm vì bác Thuận và thầy Nhất Hạnh nói về khoa học và Phật giáo. Lúc đầu tụi con hơi ngại vì sợ phải nghe đi nghe lại bắt mệt rằng, “Phật giáo rất khoa học” giống như quảng cáo trên TV vì sợ Phật giáo mê tín dị đoan, không khoa học. Nhưng lần nầy thì khác...

Thấy Bé Na bỏ lửng câu nói, tôi tiếp lời gợi ý:

- Khác về chuyện chi con?

Quay qua cô bạn bên cạnh, Bé Na cầu viện:

- Dạ khác nhiều lắm. Hey, Hạnh Chi, “dzu” nhớ giỏi, nói cho ba của mình nghe đi!

Hạnh Chi cũng làm nghề thầy thuốc Tây chữa mắt như Bé Na, nhưng tiếng Việt và sự hiểu biết đạo Phật giỏi hơn Bé Na vì tới Mỹ ở tuổi trưởng thành và đã từng sinh hoạt trong Gia Đình Phật Tử và các Đạo tràng Phật giáo Việt Nam.

Hạnh Chi lên tiếng:

- Dạ thưa bác, giáo sư Thuận là một nhà vật lý học Việt Nam nổi tiếng chắc bác biết rồi. Theo bác Thuận thì có một nội dung giống nhau giữa Phật giáo và khoa học về nhiều lý thuyết như: Tính không hay tính rỗng lặng của Phật giáo giống với Tính Rỗng Không (vacuity, emptiness) về yếu tính sự vật trong cái nhìn của vật lý bây giờ. Sự vô thường của Phật giáo không khác tính Không Thường Xuyên, chẳng đều đặn (impermanence) của khoa học. Nguyên lý duyên khởi hay hợp duyên trong Phật giáo không khác bà con dính chùm và tùy thuộc vào nhau của mọi hiện tượng vật lý gọi là “convergence” tức là điểm tụ họp của các điều kiện lại với nhau. Cháu kể lại như vậy có gì sai sót không ạ?

Tôi trả lời:

- Bác có được nghe giáo sư Trịnh Xuân Thuận thuyết trình đâu mà biết có gì sai sót. Những điều cháu vừa kể thì mấy năm trước đây đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã có nói tới rồi... Nhưng với một nhà khoa học có tiếng như bác Thuận chắc có nhiều điều khác hơn.

Trong lúc Hạnh Chi và tôi nói thì Bé Na giải thích cho mấy bạn trong nhóm đang chăm chú lắng nghe. Anh Việt đề huề. Câu chuyện tiếng Anh bên cốc cà phê sớm lại xoay qua nói về đấng Vua Trời, đấng Sáng Tạo, đấng Toàn Năng, Thượng Đế. Các tôn giáo khác đều có một Đấng Khởi Đầu, nhưng riêng đạo Phật thì không.

Andy hỏi một cách e dè:

- Như vậy Phật giáo không có một Thượng Đế hay sao?

Sonia góp ý:

- Bạn phải nói là Thượng Đế – God – nào và Thượng Đế của ai? Đạo Sikh của mình thì cho “God” là người làm nên tất cả gọi là “Mool Mantar”. Mool Mantar ở đâu rất xa trên trời mà cũng chính ở ngay trong mình. Ngài là sự thật, không ghét, không sợ, không màu, không sắc, tự sinh ra và không bao giờ chết. Còn Thượng Đế của các bạn thì thế nào?

Hamas theo Ấn Độ giáo lên tiếng:

- Thượng Đế trong tôn giáo Ấn Độ của mình là Brahman. Ngài được xem là “Vua Trời”, là Sự Thật Tuyệt Đối, là đấng Tạo Hóa. Nhưng cũng có khi Brahman được hình dung như là “Mẹ” với tính bao dung, quán xuyến mọi việc trong trời đất; và cũng có khi Brahman lại hình dung như “Con” với sự khởi đầu, hồn nhiên trong sáng ngây thơ.

Đến khi các bạn đều đã nói đến Thượng Đế trong tôn giáo của mình, Bé Na hỏi:

- Ba ơi! Như vậy thì quả thật là đạo Phật mình không có một Thượng Đế mở đầu hay sao Ba?

Tôi nghĩ là không thể trả lời máy móc và đơn giản rằng “có” hay “không”, nên đi vòng vo một chút; nhưng phải đơn giản vì tiếng Việt của Bé Na chỉ tạm đủ trong giới hạn chuyện trò thường ngày.

- Thượng Đế trong các tôn giáo của các bạn con vừa nói đến, tuy khác nhau về nhiều cái riêng, nhưng cái chung đều giống nhau. Đó là một đấng Sáng Tạo ra muôn loài và đó cũng là Sự Thật hoàn toàn. Đạo Phật nói đến sự sáng tạo ra muôn loài là do vô số điều kiện hợp nhau lại mà thành gọi là Duyên Khởi và Sự Thật của vạn vật là chẳng có vật nào tự nó đứng riêng lẻ mà thành gọi là Tánh Không. Nếu không đứng riêng mà dùng chung các danh từ với các tôn giáo khác thì chúng ta có thể nói rằng, Tánh Không và Duyên Khởi chính là chân dung về một “Thượng Đế” của Phật giáo vì đó là Sự Thật tạo tác ra mọi sự của vũ trụ nầy gọi là vạn pháp.

Sau khi trao đổi bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh thì cả nhóm có vẻ trầm lặng hơn. Andy đưa ra ý kiến:

- Có lẽ tên gọi và cách tưởng tượng, mô tả khác nhau nhưng tất cả đều trở về với cái “Oneness” (một thể chung nhất). Đó là Sự Thật của một Thể Tính Rỗng Lặng chung cho vạn vật.

Hạnh Chi liên tưởng tới cuộc đàm luận của Giáo sư và Thiền sư, lên tiếng:

- Theo Hạnh Chi thấy thì Phật giáo và Khoa học gần nhau nhưng lại khác nhau như hai đàng trong một cuộc chơi Cút – Tìm (Hide and Seek). Theo tinh thần Phật giáo thì Sự Hiểu Biết do kiến thức hay vốn hiểu biết sách vở là một chướng ngại trên đường đi tìm trí tuệ giác ngộ. Tất cả những điều nhân loại đã biết đều như cái xác đã bị đóng nắp nằm trong quan tài với tiểu sử do người khác viết lại và đọc lên. Muốn biết một người khác ngoài quan tài, mình phải tự mắt mình nhìn thấy. Nhất định không giữ hình ảnh một người nào khác để so sánh. Cần phải tìm một trạng thái “trống không”; giữ cho đầu óc trong veo như trẻ thơ và đừng để cho trí óc dựa vào đâu cả mới mong có được đường vào trí tuệ, đưa tới giác ngộ. Trong lúc khoa học lại đòi hỏi cần phải sử dụng lý trí và sự hiểu biết đã có sẵn để tìm hiểu và khám phá thế giới và vũ trụ chung quanh mình.

Bé Na với đầu óc ham vui, lau chau đưa ra sự ví von, minh họa cho những điều Hạnh Chi vừa nói:

- Nè, Hạnh Chi, mình đồng ý với bạn về cái chuyện đem kiểu chơi Cút – Tìm để nói ví dụ về đạo Phật và Khoa học. Người tu đạo Phật giống với người “cút” trong cuộc chơi Cút – Tìm. Chỉ khi nào núp ở đâu kín mít, không hé cho thấy, không nói gì, không động đậy, xí xoá hết chính mình mà vẫn biết rõ mình đang đứng giữa cuộc chơi thì đó là lúc đứa làm “con” đang thắng và đang “thấy” mọi cái đang diễn ra xung quanh mình. Còn đứa làm “cái” thì phải dùng đủ mọi cách để tìm cho ra “con” đang núp kín đâu đó thì mới thắng. Hì... hì! Thiền sư là “phía đi cút”; phải trốn cho thật hay, xa lánh mọi sự dính mắc để không ai tìm ra được. Giáo sư khoa học tài giỏi là “phía đi tìm”; phải tìm cho thật hay để kiếm cho ra người ẩn núp.

Hạnh Chi vỗ tay:

- Ơ mình nhớ ra rồi. Hôm ở Làng Mai, thầy Trịnh Xuân Thuận đã hỏi thầy Nhất Hạnh rằng phía đạo Phật thì cho sự hiểu biết gây ra chướng ngại vì nó thường làm cho người ta đeo cứng vào sách vở kiến thức nên không thực hành, chẳng đưa chính cái tâm mình đến trực tiếp với Đạo. Trong lúc khoa học thì phải dựa trên những hiểu biết đã tìm ra để đi tìm cái mới.

Cả nhóm nhao nhao. Bé Na thắc mắc:

- Ồ đúng đó! Mình cũng có nghe thầy Nhất Hạnh trả lời về hai phía là “ultimate truth” và “ordinary truth” mà gọi bằng tiếng Việt là “đế... đế” gì đó.

Nghe con bé cà lăm, bố già nó nhắc khéo:

- Có phải là “chân đế” và “tục đế” không?

Con bé như mở cờ trong bụng:

- Dạ, phải đó. Vậy chân đế, tục đế ấy là gì hở ba?

- “Đế” là cái gốc, cái nền của sự thật. Chân đế (ultimate truth) là sự thật chân chính, rốt ráo tận cùng và chỉ có những bậc thánh đã mở được hết mọi cánh cửa của trí tuệ mới thấy được. Trong lúc tục đế (ordinary truth) là sự thật thường tình hiện ra trước mắt mà người trần mắt thịt như chúng ta ai cũng thấy được. Vì ai cũng có khả năng thành Phật nên ai cũng có thể vén được cánh cửa che chắn sau cùng để tự mình thấy được sự thật chân chính đó.

- Như thế thì sự nhìn thấy của khoa học và sự nhìn thấy của Phật và các ông thánh khác nhau ở chỗ nào. Như ngày xưa Phật nói trong một chén nước đã có nhiều vạn sinh trùng và trời đất có nhiều nghìn thế giới ... thì ngày nay khoa học cũng chứng minh như thế. Vậy thì những con sinh trùng trong chén nước theo cái “thấy” của Phật có giống với những con vi trùng thấy bởi các ông khoa học không?

- Ha, ha. Ba chịu không trả lời được vì ba có “chứng ngộ” hay làm “ông khoa học” đâu mà biết để so sánh và kể lại cho các con nghe.

Hạnh Chi... giải vây:

- Khoa học và Phật giáo có thể có những điểm “hội tụ” chỉ ở trong phạm vi hiện tượng, nằm trong giới hạn thuộc về thế giới phàm tục mà mình đang sống. Nhưng khi bước qua hay bước lên cái khung khác của thánh đế, hay chân đế thì khoa học ở lại với thế giới hình tướng nầy; tiếp tục đưa ra những giả thuyết để tìm kiếm và chứng minh. Sự trống không, tính chất vô thường định và lý thuyết tụ hội gọi là Symbolic Convergence Theory (SCT) trong ngành Vật lý hiện đại mới nghe qua rất giống với Lý Duyên Khởi, nhưng cũng chỉ mới ở mức độ thế giới vật chất tương đối nầy mà thôi. Trong lúc đó, đạo Phật tiếp tục tiến tới một chốn tuyệt đối khác mà các bậc thánh giác ngộ đã thấy và biết được. Đến đây mỗi bên đều có một vũ trụ riêng. Tôn giáo là một chân trời mở rộng của lòng tin và cảm nhận. Thật là tuyệt vời vì cái nhìn của Phật lý có nhiều điểm tương đồng với lý thuyết khoa học. Nhưng nếu cứ đeo mang khoa học vào tôn giáo – hay ngược lại – thì đâu khác gì là cột cục đá nặng vào chân con vịt trời đang bay qua núi xanh và mây trắng thì tội cho nó quá. Hì... hì. Con nghĩ chi nói nấy, bác đừng la con nghe.

- “Nó” là ai vậy? Tôi hỏi đùa con bé.

Cháu trả lời ngay:

- Dạ, cả khoa học và con vịt trời nữa ạ!

Tôi cảm thấy vui vui vì sự thẳng thắn và tươi tắn nhẹ nhàng; nhưng cũng đầy suy tư độc lập của tuổi trẻ. Đạo Phật đang mạnh mẽ đi vào thế giới phương Tây và thu hút tuổi trẻ trí thức cũng do tính chất sinh động đó.

Nếp sống tinh thần và tâm linh thông thoáng, linh hoạt biến ảo như mây khói. Nếu đủ duyên lành gần với “điệu sống giữa đường” theo tinh thần tuổi trẻ như thế thì dẫu những cánh cửa định kiến, cực đoan và vọng động có cài khóa lâu năm chầy tháng tới đâu cũng sẽ thành Cửa Không. Khi cửa thiền là cửa không thì tâm mình là trung đạo. Điệu sống giữa đường từ đó mà sinh ra.

Sacramento, tháng Tám Trung Thu 2012
Trần Kiêm Đoàn
(www.trankiemdoan.net) 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.