Hôm nay,  

Ba Lan Du Ký: Warsaw, Thành Phố Sống Dậy

20/11/201200:00:00(Xem: 10011)
Tôi đến thăm thủ đô Warsaw của Balan trong một chuyến du lịch Đông Âu dài ngày. Từ lâu Ba lan đối với tôi là niềm cảm mến chân thành về một dân tộc bị trị đã quả cảm đứng lên thực hiện cuộc nổi dậy chống bạo cường Đức quốc xã vào thế chiến thứ hai. Nhưng trời không chiều lòng người và hơn 200 ngàn dân Ba Lan đã bị tiêu diệt trong cuộc tắm máu đó. Họ tin tưởng vào lời hứa hẹn của liên minh Nga và bị phản bội dù quân Nga đã đến đóng bên kia sông Wisla. Đoạn hồi ký lịch sử Ba Lan này đã được quay lại trong cuốn phim “Pianist” với nhân vật Wladyslaw Szpillman. Anh là một nhạc công dương cầm tài năng mang hai dòng máu Ba Lan-Do Thái và bắt đầu bi kịch đời mình khi quân đội Nazi bỏ bom như trút nước xuống Warsaw, rồi tiến chiếm Ba Lan. Cuộc đời tù túng, trốn chạy không ngừng trước những săn đuổi ráo riết của quân Đức chẳng làm phai nhoà niềm đam mê, bầu nhiệt huyết cháy bỏng của anh với âm nhạc. Vào tháng 11 năm 1940, anh là nhân chứng sống thấy được những cảnh man rợ, ngược đãi con người không nhân tính trong trại tập trung người Do Thái (Warsaw Ghetto), ở Warsaw, nơi có giam cầm cha mẹ anh. Anh cũng chứng kiến cuộc nổi dậy và những thây người ngã xuống khi dân chúng Ba Lan bị thất bại và đàn áp. Những người Do Thái cũng bị tập trung ở đây trước khi đưa qua phòng hơi ngạt.

Tôi cũng không thể quên nhân vật Abel Rosnovski người Ba Lan trong tác phẩm bán chạy nhất khắp thế giới năm 1979 “Kane & Abel” của Jeffrey Archer. Cuốn tiểu thuyết gây nhiều ấn tượng với độc giả, xoay quanh hai nhân vật sinh ra cùng thời điểm, từ hai hoàn cảnh sống, hai số phận khác nhau, lớn lên cùng đạt thành công trong cuộc sống nhờ vào sự quyết tâm. Tuy nhiên nhân vật Abel là người cùng khổ từ lúc lọt lòng, nhờ thông minh lại có nhiều nghị lực đấu tranh nên sống còn sau cuộc chiến giữa Đức và Ba Lan. Abel đến được Hoa Kỳ lập nghiệp và leo đến tận cùng của đỉnh danh vọng. Độc giả có thể nhận ra Abel như một người mẫu điển hình trong rất nhiều người di dân Ba Lan đã di cư đến New York, hay Chicago Hoa kỳ vào những năm cuối đệ nhị thế chiến. Họ bị ly tán đi khắp thế giới và chăm chỉ cần cù lập nên sự nghiệp từ hai bàn tay trắng.

Warsaw hay Warszawa, cái tên được tạo bởi Wars (người đánh cá), và Sawa (nàng tiên cá trên sông Wisla) là thành phố lớn nhất cũng là thủ đô của Ba Lan, một trong những trung tâm thương mại phát triển nhất của Đông Âu. Thành phố Phương Hoàng (một tên khác của Warsaw) này là một kết hợp của nhiều kiến trúc. Gồm các nét nghệ thuật Gô-tích (Gothic) trước Trung Cổ, thời Phục Hưng với Renaissance, kiểu La Mã với Ba-rôc (baroque) và pha trộn cả Hy Lạp cổ với Neoclassical nữa. Đồng thời những toà nhà mang nét kiến trúc Nga cũng hiện diện, điển hình là Cung Văn Hoá.
ba_lan_nguoi_bi_hanh_quyet_trong_cuoc_noi_day
Dân Warsaw nổi dậy, thất bại, bị quân Xô viết xử bắn.
Theo chân đoàn du lịch, chúng tôi đi thăm vùng cố đô(old town) của Warsaw. Sau hai cuộc thế chiến, Phố Cổ như một bãi hoang địa hư hỏng đến 85%, giờ đã rùng mình sống lại, đẹp hơn, trang nhã hơn trong nét kiến trúc có hơi hướng hội họa cổ điển Canalletto, nửa nguyên thủy, nửa tân tạo, bừng sáng lóng lánh tươi. Nhìn vẻ hài hoà, màu sắc nhu hợp nhưng không thiếu dáng uy vĩ của các ngôi lầu đài, cung điện, thánh đường, du khách không thể không cảm phục tinh thần bất khuất của người dân Ba Lan. Họ đã xây dựng, tái thiết lại đô thị của họ bằng tiền quyên góp của người dân. Lòng yêu nước, nỗi tự hào dân tộc đã nuôi sống các cuộc trùng tu cố đô bắt đầu từ những năm 1950. Riêng cung điện Hoàng Gia khởi sự sau năm 1970. Nhờ những bản vẽ và hoạ đồ từ thế kỷ 18 còn để lại, việc kiến thiết trở nên dễ dàng hơn. Cư dân phần lớn dời về Phố Mới(new town), nhường lại Phố Cổ cho thương mại cùng những dịch vụ du lịch vì số lượng du khách ngày càng tăng.


Chúng tôi vào trong Cung Điện Hoàng Gia và được nhìn tận mắt kiến thiết huy hoàng của cung điện với những hoa văn trang trí khi thì mạ vàng, khi thì dịu nhẹ, tươi mát với sắc xanh lục êm êm. Tường phần lớn trần thiết với những bức tranh hoạ quang cảnh của đô thị Warsaw xưa do các hoạ sĩ thế kỷ thứ 19 vẽ lại. Các câu chuyện và biến cố lịch sử qua các triều đại được miêu tả và tường thuật tỉ mỉ bằng các cây cọ lừng danh của Ba Lan.

Tôi được đi lại trên con đường có lát đá(hầu hết những con đường cổ ở Âu Châu đều lát đá) thật râm mát với những vòm dẻ gai rụng trái khắp nơi. Lạ, Âu châu nơi nào cũng có loại cây mang thứ trái xù xì gai như chôm chôm này. Mỗi lần trái chín khô rơi xuống, cái hạt dẻ nâu bên trong lại mở ra, trông rất ngon mắt. Chim chóc rất thích hạt dẻ gai, nhưng con người ăn nhiều không được vì nó chứa chất độc tannins. Hồi thế kỷ thứ 19, người Anh đã dùng dầu của nó để xào nấu và đốt đèn. Con đường Hoàng gia này là một trong những đại lộ rộng nhất của châu Âu, nối Công viên Lazienki đến Thành Cổ. Ngày xưa chỉ có vua chúa và các gia đình quý tộc mới được đi. Nó dẫn đến các kiệt tác kiến trúc - nhà thờ, cung điện, nhà hát - đã được xếp hạng của thủ đô xứ Ba Lan. Đó là Cung điện Hoàng gia Warszawa tại Quảng trường Thành cổ, nơi sừng sững và vươn cao bức tượng vua Zygmunt Đệ nhị trên chiếc cột đá cao 22 mét; đây chính là vị vua đã dời thủ đô Ba Lan từ cố đô Cracow về Warszawa vào thế kỷ XVI. Sau này trong thời Nga chiếm đóng con đường chỉ dành cho những chức sắc và gia đình có quyền hành trong Đảng mà thôỉ. Khu quảng trường coi như Paris thu nhỏ này cũng là nơi tổ chức các buổi hội họp và lễ lạc thời Liên Bang Sô Viết thống trị. Cũng chính nơi này chúng tôi được xem những bức ảnh chụp và tận mắt thấy những lóng xương giày dép, vật dụng của những người Do Thái bị thảm sát ngày trước. Khi dân Ba Lan tái thiết thành phố, họ đã khai quật và tìm thấy xương cốt cũng như dấu vết của các sắc dân Do Thái, Ba Lan, Ukraine đã bị giết.
balan_warsaw_pigeons
Hình ảnh Warsaw, thủ đô Ba Lan.
Sau đó chúng tôi có đến thăm đài tưởng niệm cuộc nổi dậy dành độc lập tháng 8 năm 1944 với những bức tượng điêu khắc tường thuật lại diễn biến cuộc chiến. Hình ảnh quân Ba Lan chui lên từ những đường hầm đã bị quân Đức bắt, được mô tả tỉ mỉ qua các bức tượng. Người hướng dẫn viên du lịch không ngần ngại bày tỏ nỗi phẫn uất lịch sử qua tấn bi kịch gần nửa thế kỷ, từ năm 1944 tới năm 1989, dân tộc Ba Lan cay đắng với thân phận vừa thoát khỏi ách phát xít lại rơi vào ách của hệ thống toàn trị cộng sản do Liên Xô đứng đầu.

Norman Davies, sử gia Anh, đã nói trên nhật báo Ba Lan Dziennik:

“Một số vấn đề lịch sử của Ba Lan cho đến ngày hôm nay bị làm ngơ khủng khiếp ở phương Tây. Câu hỏi đặt ra là làm sao đánh động được hàng triệu người không phải là kẻ thù của lịch sử Ba Lan, mà đơn giản là họ không biết gì cả. “Katyn” không hợp với sự mường tượng của họ về Thế chiến II: phía Thiện, tức là những người chống lại Đức Quốc Xã – và chỉ một phía Ác: phát xít Hitler. Sự thể là, trong cùng thời gian ấy còn một bạo chúa hãi hùng khác, đó là Liên Xô – mà trong thực tế người ta có biết đến nhưng rất hời hợt. Sau khi Đức đổ bộ, Ba Lan còn bị cả quân Xô Viết tấn công”.

Viếng thăm một quốc gia, du khách không những được mục kích những kiến trúc, đền đài, cung điện, phong cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, thơ mộng, du khách còn được hiểu biết thêm về văn hoá, kinh tế và chính trị của nước đó. Bi kịch lịch sử của Ba Lan là một bài học quý giá cho những sử gia thế giới và những ai ưa thích môn lịch sử muốn tìm hiểu thêm. Ba Lan còn nhiều nơi chốn và nhân vật lừng lẫy sẽ được nhắc đến trong bài viết tới của chương ký sự Ba Lan này, xin độc giả đón đọc.

Trịnh Thanh Thủy

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
Gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp dụng chính sách áp thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu vào Mỹ, trước đó Trump cũng đã áp đặt biện pháp trừng phạt chung đối với Liên Âu, Canada, Mexico và Trung Quốc, nhưng lại tạm hoãn trong 30 ngày để cho Canada và Mexico thương thuyết. Các biện pháp bất nhất này gây nhiều hoang mang cho chính giới và doanh nghiệp các nước đối tác.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.