Hôm nay,  

Thi Đua Hoa-Ấn

05/01/201300:00:00(Xem: 9045)
Vì sao Trung Quốc sẽ thua Ấn Độ?

Trả lời cuộc phỏng vấn đầu năm 2013 của mục Tạp Chí Kinh Tế trên đài Phát thanh Quốc tế Pháp RFI tại Paris, về trận đua kinh tế giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, người viết tỏ vẻ hoài nghi những dự báo rằng kinh tế Trung Quốc sẽ sớm vượt Mỹ để đứng đầu thế giới. Và còn nói ngược rằng có khi Trung Quốc lại bị Ấn Độ bắt kịp! Độc giả có thể thắc mắc về cơ sở của lý luận này. Nhân dịp đầu năm, xin nhắc lại chuyện Ấn Hoa....

Tương lai không nhất thiết là một dự phóng vạch ra từ quá khứ, nhiều đột biến bất ngờ vẫn có thể xảy ra và làm thay đổi cục diện của các quốc gia. Nhưng nhìn trong trường kỳ, một số chuyển động chậm rãi âm thầm cũng dẫn tới những đổi thay trong từng nước và chi phối tương quan giữa các quốc gia với nhau. Vì vậy, dự báo là điều cần thiết, nhưng phải trong thế động...

Kể về mệnh giá, sản lượng kinh tế Trung Quốc vừa vượt Nhật Bản vào năm 2010 để đứng hạng nhì thế giới và thực tế thì còn sớm hơn cả chục năm nếu kể về tỷ giá mãi lực hay sức mua của đồng bạc tại hai nơi khác nhau. Trong các nền kinh tế thuộc loại đang phát triển, Trung Quốc là một thị trường lớn và đông dân nhất địa cầu, thực tế là một trung tâm chế biến của toàn cầu, nên được chú ý, thậm chí ngợi ca. Trong phần ngợi ca ấy có rất nhiều điều nhảm nhí, đôi khi còn vì dụng tâm! Chuyện dụng tâm ấy, xin gác qua một bên

Với khác biệt về đà tăng trưởng hàng năm – 7% so với 2% của Hoa Kỳ - thì Trung Quốc có thể bắt kịp Mỹ nếu ta phóng lên hai đường tuyến từ quá khứ vào tương lai. Nhiều dự báo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, hay gần đây nhất, của Hội đồng Tư vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ (National Intelligence Council), đều nói tới chuyện bắt kịp và vượt qua, vào thời điểm 2016 hay 2030, tùy cách tính.

Nhưng thế giới con người lại không đơn giản như vậy.

Là quốc gia đông dân nhất địa cầu, Trung Quốc có một tỷ 350 triệu dân, hơn Ấn Độ cỡ trăm triệu. Nhưng, do chủ trương kế hoạch hóa gia đình (chính sách "mỗi hộ một con") được áp dụng từ năm 1978, đà tăng trưởng dân số đã bắt đầu chậm lại và Trung Quốc sẽ sớm gặp hiện tượng "lão hóa dân số", với lớp cao niên chiếm một tỷ trọng lớn hơn và nâng cao "tỷ số lệ thuộc", của thành phần lệ thuộc vào sức sản xuất của những người trẻ hơn.

Ấn Độ sẽ sớm bắt kịp Trung Quốc về dân số, với "tỷ số lệ thuộc" thấp hơn nhờ dân số trẻ hơn. Tức là về lượng lẫn phẩm, Ấn có ưu thế cao hơn nếu chỉ tính đến dân số. Hệ thống giáo dục và đào tạo của Ấn còn có ưu thế khác - kể cả di sản về tổ chức của Đế quốc Anh - nên đạt năng suất và cơ hội lao động cao hơn. Đấy là một lẽ.

Sau khi giành lại độc lập năm 1947 và dưới sự lãnh đạo của đảng Quốc Đại theo xu hướng xã hội chủ nghĩa. Ấn Độ học thói Xô viết và đòi quốc hữu hóa nền kinh tế. Điều may mắn là xứ này đã ngay từ đầu áp dụng chế độ dân chủ và tinh thần đa nguyên, nên khi Liên Xô tan rã năm 1991, Ấn đã kịp xoay mà không bị loạn. Ấn đã cải cách kinh tế và chuyển hướng theo quy luật thị trường và 20 năm sau, khu vực quốc doanh chỉ kiểm soát được có 14% của Tổng sản lượng, so với 50% tại Trung Quốc.

Chẳng những vậy, Ấn Độ có truyền thống kinh tế tự do hơn các nước lớn đã áp dụng chế độ độc tài, như Trung Quốc hay Liên bang Nga. Nhờ vậy, tư doanh Ấn có những tổ hợp lớn với sức cạnh tranh đáng kể trên trường quốc tế. Trung Quốc thì chưa vì tập đoàn nào cũng bị nhà nước chi phối, từ ngân hàng đến công nghiệp và dịch vụ, để thực thi chánh sách của đảng, đã kém khả năng cạnh tranh mà còn gây lãng phí và chỉ là hang ổ của tham nhũng.Nói về tập đoàn tài chánh ngân hàng và khả năng điều tiết kinh tế, các ngân hàng của Ấn phải cạnh tranh bằng tổ chức và năng suất, trong khi Ngân hàng Trung ương là có thẩm quyền tương đối độc lập về chánh sách. Hệ thống Trung Quốc lại khác. Thống đốc Ngân hàng Trung ương có thể bị đá ra khỏi Trung ương đảng - số phận của Chu Tiểu Xuyên – và bề nào cũng chẳng kiểm soát được các ngân hàng thương mại của nhà nước mà còn bị nhiều ủy ban của đảng chi phối để thi hành chánh sách của đảng.

Hậu quả là Trung Quốc chủ quan áp dụng lãi suất rẻ, các ngân hàng của nhà nước phải tài trợ các doanh nghiệp cũng nhà nước qua biện pháp ưu đãi và gây rủi ro, lãng phí trong hệ thống quốc doanh là nơi thu hút một phần tư dân số lao động. Chánh sách điều tiết về tín dụng và tiền tệ của Trung Quốc thật ra còn quá thô sơ so với Ấn Độ. Đòn bẩy sử dụng là biện pháp hành chánh và mức dự trữ pháp định là loại khí cụ thô thiển, lạc hậu và thực tế chỉ là sự phân bố tín dụng nhờ sự can thiệp của nhà nước, hay nhờ quan hệ thân tộc của các đảng viên cao cấp.


Đã vậy, Bắc Kinh còn dọa thiên hạ là sẽ thả nổi đồng Nguyên vào năm 2015 để nâng đồng bạc vào loại "ngoại tệ dự trữ" và ganh đua với các ngoại tệ mạnh. Thực tế thì Bắc Kinh vẫn kiểm soát hối suất để tìm lợi thế cạnh tranh nhờ tiền rẻ và tránh biến động tiền tệ lẫn động loạn xã hội nếu đồng bạc lên giá. Trong khi ấy, đồng Rupee của Ấn được tương đối tự do lên xuống theo quy luật cung cầu chứ không do quyết định của nhà nước. Và hệ thống kiểm soát luồng giao dịch tư bản của xứ này cũng được giải toả, giới đầu tư quốc tế có thể tham gia vào thị trường cổ phiếu của Ấn chứ không bị hạn chế như tại Trung Quốc.

Kết quả chung cuộc về chánh sách là tiêu thụ chiếm 58% Tổng sản lượng Ấn Độ so với 38% của Trung Quốc: kinh tế Trung Quốc vẫn lệ thuộc quá nhiều vào đầu tư (47%) và xuất cảng (29%), mà xuất cảng của xứ này lại thuộc vào loại chế biến, có thể thăng giáng theo chu kỳ trong khi đa số xuất cảng của Ấn lại là loại dịch vụ, rất ít bị ảnh hưởng.

Tiêu thụ mà chiếm một tỷ trọng cao thì cũng có nghĩa là người dân được quyền hưởng, và quyền chọn, và doanh nghiệp phải cạnh tranh để phục vụ sở thích của khách hàng.

Thế giới cứ nói về sức tiết kiệm của người dân Trung Quốc. Đấy là cách nhìn bằng một mắt nên kém chiều sâu: vì Trung Quốc thiếu mạng lưới an sinh và phúc lợi nên ai cũng phải dằn túi thủ thân. Dân Ấn Độ có mức tiết kiệm cũng bằng 30% lợi tức, nhưng vẫn có sức tiêu thụ cao hơn người dân Hoa lục. Mà về khả năng tiêu thụ ấy, họ còn có quyền chọn lựa trong một thị trường then chốt là thông tin và báo chí.

Báo chí Ấn Độ có quyền tự do chứ không bị kiểm soát, dân trí cũng vậy! Trong nền kinh tế tri thức của nhân loại, đấy là một lợi thế của Ấn mà Trung Quốc không có. Huống hồ dân Ấn - rất trẻ, xin nhắc lại – còn có khả năng vượt trội về thuật lý, technology. Và lại thông thạo ngôn ngữ chủ yếu của thế giới hiện đại là Anh ngữ!

Đế quốc Anh chỉ không để lại loại di sản vô hình như ngôn ngữ, bộ máy hành chánh công quyền, hạ tầng cơ sở luật lệ, chế độ dân chủ đại nghị hoặc tinh thần đa nguyên. Vì nhu cầu của họ, người Anh còn sớm phát triển mạng lưới hỏa xa toả rộng trong lãnh thổ Ấn. Hệ thống giao thông ấy là lợi thế cho việc vận chuyển người và vật trong một lãnh thổ rộng lớn, là điều Trung Quốc chưa có và chưa thể có.

Là một xã hội đa nguyên, từng đã bị khủng bố tấn công, Ấn Độ không nhân danh quyền ổn định và thống nhất quốc gia mà đàn áp dân thiểu số, kể cả những người theo đạo Hồi là tôn giáo xưa kia đã từng thống trị xứ này. Tại Trung Quốc, các sắc tộc thiểu số chỉ là phó thường dân. Và xứ này không thể ổn định nếu ngơi tay đàn áp - mà càng đàn áp thì càng dễ gây ra sức bật!

Sau cùng, xin nhường lời cho một bậc thầy về kinh tế chính trị học.

Milton Friedman là kinh tế gia khét tiếng thuộc trường phái tiền tệ với chủ trương nhiệt liệt đề cao tự do kinh tế. Ông cũng đã từng được mời qua Bắc Kinh diễn thuyết về kinh tế thị trường và quyền tự do chọn lựa của người dân. Ông mất vào tháng 11 năm 2006, ở tuổi 95. Trước khi tạ thế mấy tháng, ông được tờ Wall Street Journal phỏng vấn và bài này được tờ báo phổ biến trong số ra ngày 22 tháng Giêng năm 2007. Ghi như vậy để những người tò mò có thể tìm đọc lại, khi Friedman được tờ báo mời ông so sánh Trung Quốc và Ấn Độ.

Câu trả lời phải làm chúng ta giật mình:

"Trung Quốc vẫn duy trì chế độ tập thể về chính trị và nhân sự trong khi giải phóng dần nền kinh tế thị trường. Tới nay thì điều đó có thành công, nhưng sẽ dẫn tới xung đột vì không thể dung hợp kinh tế tự do với chính trị tập thể. Ấn Độ thì duy trì chế độ dân chủ chính trị nhưng lại quản lý một nền kinh tế tập thể. Bây giờ họ mới bắt đầu giải phóng kinh tế nên sẽ gia tăng mọi quyền tự do, vì vậy xứ này có vị trí khả quan hơn Trung Quốc".Milton Friedman không là kinh tế gia bình thường, ông nhìn sự việc khác thiên hạ nên là nhân vật hiếm hoi không tỏ vẻ gì là bị mê hoặc về huyền thoại Trung Quốc mà còn tiên báo điều nghịch lý. Có lẽ vì ông nhìn vào nội lực thật của Trung Quốc. Chúng ta nên thử tìm hiểu về nội lực đó khi cả thế giới cứ nói hoài là khi Trung Quốc tỉnh giấc, thiên hạ sẽ bị chấn động.

Thiên hạ có thể chấn động khi Trung Quốc bị Ấn Độ qua mặt và bên trong lại bị động loạn và gặp lại cảnh tam phân. Không thành ngũ đại thì cũng ra thập quốc....

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.