Hôm nay,  

Từ Bergoglio Đến Francis

15/03/201300:00:00(Xem: 11091)
Đức Giáo Hoàng khiêm cung của dân nghèo...

Việc đức Hồng y Jorge Mario Bergoglio được đưa lên ngôi Giáo hoàng mang nhiều ý nghĩa sâu xa không chỉ riêng với người Công giáo.

Mật nghị Hồng y có ý thức toàn cầu khi bỏ phiếu cho một vị Hồng y của Mỹ châu La tinh vào vai trò chủ chăn của Giáo hội Công giáo Hoàn vũ. Trong thế giới ngày nay, lục địa này có nhiều giáo dân Công giáo hơn là tại Âu châu, ít ra đến 200 triệu. Chiều hướng này còn tiếp tục vì Âu châu ngày càng có nhiều người hoài nghi, xa lánh, bỏ đạo và không muốn có con vì nhiều lý do, trong khi dân số Mỹ châu La tinh sẽ còn tăng nhờ sinh suất cao hơn. Tại lục địa Nam Mỹ, Giáo hội Công giáo còn thấy sự bành trướng của các giáo hội Tin lành lẫn nhiều giáo phái khác của dân Nam Mỹ gốc Phi Châu.

Thuần về lý luận địa dư chính trị - xin lỗi người sùng tín! – Giáo hội Vatican mặc nhiên xác nhận một sự chuyển dịch toàn cầu và ưu thế suy giảm của các định chế tôn giáo Âu châu. Năm trăm năm sau khi Columbus tìm ra "tân thế giới" (1492), Âu châu lu mờ dần kể từ khi một siêu cường của lục địa này là Liên Xô bị tan rã vào năm 1991. Việc vị Giáo hoàng mới là người đã sống và hành đạo ngoài Âu châu có đánh dấu chiều hướng này.

Bây giờ mới nói đến đức Hồng y Bergoglio (xin đọc là Ber-GOAL-io).

Ngài theo một dòng tu lớn nhất của Công giáo là Dòng Tên, lên đến vị trí lãnh đạo và là tu sĩ đầu tiên của dòng Tên lên ngôi Giáo hoàng. Được thành lập từ thế kỷ 16, Dòng Jesuit có đặc tính cải cách ("thiên tả" là một lối gọi khác), trí thức và góp phần quảng bá Công giáo rất mạnh tại Nam Mỹ và Đông Nam Á – kể cả Việt Nam – qua các tổ chức giáo dục.

Những đặc tính ấy khiến Dòng Tên đã từng đụng độ các nền quân chủ Âu châu ngày xưa và gây khó cho các chế độ độc tài ngày nay (Hà Nội ơi!) Hơn hẳn nhiều dòng tu khác, Dòng Tên cũng tích cực trong lãnh vực chính trị và có chủ trương "cải tạo xã hội", với ý nghĩa khác hẳn của chữ "cải tạo": tử tế hơn nhiều!

Các chế độ hung đồ độc tài nên lo sợ yếu tố ngoài thần học hay giáo lý này....

Thuần về giáo lý, Hồng y Bergoglio thuộc khuynh hướng bảo thủ - may quá – mà không cực đoan. Ngài bảo vệ quan điểm truyền thống của Giáo hội về các vấn đề cổ điển như phá thai, ngừa thai, hôn nhân đồng tính nhưng có tinh thần khoan dung với người đồng tính và chủ trương thực tiễn hơn về việc phân phối phương tiện ngừa thai. Truyền thông báo chí theo xu hướng phóng túng về đạo lý thì chú ý đến khía cạnh này và sẽ còn khai thác để công kích tân Giáo hoàng. Đó là chuyện bình thường, và với người viết này, không đáng kể.

Chuyện đáng kể là Hồng y Bergoglio là người Á Căn Đình, Argentina hay "Ạc-hăng-ti-na" nói theo người Hà Nội.

Trăm năm trước, Argentina là một cường quốc Nam Mỹ, một trong 10 nước giàu nhất thế giới, người dân có lợi tức đồng niên ngang bằng dân Đức và Pháp, xấp xỉ dân Mỹ. Ngày nay, xứ này là một nước "đang phát triển" - mạt rệp. Đấy là phép lạ của nhiều thế hệ lãnh đạo mị dân, kể từ nhà độc tài Juan Perón và các bà vợ lãnh tụ đến Tổng thống Nestor Kirchner rồi bà vợ là Phó Tổng thống nay là đương kim Tổng thống Cristina Kirchner.

Biệt tài của đám lãnh đạo u mê là gây ra lạm phát.

Như trong 25 năm từ 1975 đến 1991 đã làm vật giá tại Argentina tăng 20 tỷ lần, nôm na là 300% một năm. Họ đổi tiền một lần vào năm 1983, một peso mới ăn một vạn đồng cũ (10.000) và sau khi thấy lạm phát lên tới 12.000% thì năm 1992 lại đổi tiền lần nữa, cũng lại vạn đồng cũ ăn một đồng mới!

Chuyện ấy ăn nhập gì đến đức Giáo hoàng?

Lạm phát là sắc thuế mù quáng mà cũng sáng nhất vì đánh không trật mục tiêu: trên đầu dân nghèo. Chính sách kinh tế mị dân nghèo của nhiều lãnh tụ Argentina – y như Hugo Chavez tại Venezuela – gây thiệt hại nhất cho dân nghèo. Lãnh đạo giáo phận Bueno Aires tại Argentina, Hồng y Bergoglio thường xuyên đụng độ với vợ chồng Nestor và Cristina Kirchner vì chuyện ấy.


Truyền thông thiên tả và mù quáng của Mỹ - tại Hoa Kỳ, hai chữ này gần như đồng nghĩa - chỉ nói đến tinh thần bảo thủ của đức Hồng y Bergoglio về kỷ cương gia đình, phá thai hay hôn nhân đồng tính. Họ phe lờ yếu tố quan trọng kia: ngài thường xuyên phê phán nhược điểm bất công xã hội của các chính quyền Kirchner.

Khi chọn pháp danh là Francis, đức Giáo hoàng mới càng nhấn mạnh đến điều ấy.

Thánh Phanxicô thành Assisi là người chăm lo và cứu giúp dân nghèo. Hồng y Bergoglio lấy tên của ngài làm danh hiệu cho giáo triều của mình cũng với tinh thần đả phá bất công xã hội và cứu giúp dân nghèo, bảo vệ môi sinh và muôn loài muôn chúng. Là người lãnh đạo Giáo hội Công giáo Hoàn vũ, Giáo hoàng Francis sẽ không chỉ để ý đến tệ nạn bất công của xứ Argentina.

Đấy là lúc ta nói đến kinh tế chính trị học!

Trong năm năm qua, không chỉ có Mỹ châu La tinh mới sợ cảnh lầm than. Bất ổn kinh tế toàn cầu và chính sách ứng phó bất cập đã gây vấn đề cho dân nghèo tại Âu châu, Trung Quốc và Hoa Kỳ với nạn thất nghiệp, lạm phát và sự suy sụp lợi tức của thành phần cùng khốn. Danh hiệu của đức Giáo hoàng mới cho thấy ngài sẽ nêu vấn đề về hiện tượng này – và gián tiếp tham gia vào cuộc tranh luận về chính sách kinh tế.

Là người khiêm cung và khắc khổ, tiếng nói của Giáo hoàng Francis sẽ có trọng lượng khác.

Sau cùng, ban tham mưu của Tổng thống Barack Obama đã chứng tỏ sự thiển cận của loại chính khách theo mùa. Trong thông điệp chào mừng của Tổng thống Mỹ, họ nhấn mạnh đến việc Giáo hoàng là người Mỹ châu đầu tiên (of the Americas) và còn xin tý điểm lẻ của dân Latino (Hispanic-Americans) mà không nhìn thấy viễn kiến sâu xa hơn của Giáo hoàng Francis: phải chăm lo cho dân nghèo.

Thông điệp mị dân và rẻ tiền ấy khiến ta nên chú ý đến hai khía cạnh kinh tế chính trị học của xã hội Hoa Kỳ.

Trong cuộc bầu cử năm ngoái, gần một phần tư cử tri Mỹ là các bà mẹ độc thân, một thành phần bỏ phiếu đang tăng trong xã hội. Hai phần ba số này bỏ phiếu cho Obama và mặc nhiên ủng hộ sự lệ thuộc nhiều hơn vào nhà nước. Quyền phá thai hay hôn nhân đồng tính không giải thích tất cả. Vai trò bao cấp của nhà nước hơn là nỗ lực của cá nhân mới được nhiều người cho là giải pháp. Nước Mỹ đang từ bỏ truyền thống tự trọng, tự lực và tự cường.

Cũng từ mấy năm qua, gần 49 triệu người Mỹ phải nhận phiếu thực phẩm và thành phần sống nhờ trợ cấp tăng hơn gấp đôi số người kiếm ra việc làm (bốn triệu bảy so với hai triệu ba). Chính sách kinh tế áp dụng từ năm 2009 không thúc đẩy tăng trưởng sản xuất bằng đà gia tăng của những người lệ thuộc vào công quỹ.

Kẻ mị dân, hay "dân túy", thì gọi đây là chính sách kinh tế cho dân nghèo. Thật ra, nó làm người dân túy lúy với chế độ bao cấp. Nó làm người dân bị nghèo đi và phải trông chờ vào người khác. Như tại Argentina, Venezuela hay Âu châu.... Báo chí kinh doanh Mỹ chỉ nói đến chỉ số Dow Jonea đang lập kỷ lục mới mà ít ai nói tới lợi tức và đồng lương sa sút của dân nghèo. Nghịch lý phi thường của nước Mỹ là tỷ phú tại Wall Street sẵn sàng chi tiền cho chế độ đắc dụng này, y như người nghèo cũng sẵn sàng bỏ phiếu cho cái chính quyền đang cưu mang họ!

Hình như là việc Giáo hoàng Francis đăng quang có nhiều ý nghĩa sâu xa hơn là chúng ta thường nghĩ.

___

Một ghi chú nhỏ: Các nhà địa dư hay ngữ học khó tính chỉ dùng từ "Mỹ châu La tinh" cho khu vực Trung Nam Mỹ chịu ảnh hưởng của Đế quốc Tây Ban Nha. Với họ, xứ Brazil là đất cũ của Bồ Đào Nha không nằm trong khái niệm này. Nhưng thôi, khó tính quá thì chỉ sống một mình!

Ý kiến bạn đọc
15/03/201313:06:16
Khách
Sau "kinh tế cũng là chính trị", bài viết này của kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa cho thấy tôn giáo cũng có thể ảnh hưởng đến kinh tế, và chính trị!

Thích nhất hai câu "Hà Nội ơi!", và "khó tính quá thì chỉ sống một mình!"
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.