Hôm nay,  

Hoa Hàng Xóm

09/04/201300:00:00(Xem: 13662)
Mùa Xuân ở Nam Cali thật tuyệt vời khi mặt trởi óng ả trên các ngọn cây và tiếng chim líu lo trên cành lá. Cuộc sống trong khu vưc tôi ở giữa hai thành phố Westminster và Garden Grove, California hình như bừng lên những âm thanh rộn rã lúc mà mọi người trong xóm thường đi bộ mỗi buổi sáng trên những con đường ấm áp đầy hoa trái mùa xuân.

Nhìn những ông bà, cha mẹ đưa con đến trường.Những em bé ríu rít, tung tăng theo bố mẹ ra xe. Những cư dân, Mỹ, Mễ. Việt gặp nhau chào hỏi vui vẻ, thân thiện làm ai ai cũng cảm thấy hãnh diện vì được sống trong một đất nước, một xã hội đầy ấp tình thương và an bình.

Trên đường đi, những vườn hoa nhỏ xinh xắn, những chậu hoa, những giỏ hoa lan đủ màu sắc treo trước nhà hay bên cửa sổ. Con đường đầy hoa vô tình đưa tôi trở về thời hoa niên mơ mộng.Bên vách tường nhà ai là những bông hoa giấy đủ màu sắc. Những cụm hoa bông giấy màu đỏ thẩm gợi nhớ bao kỷ niệm mùa hè phượng đỏ rực rỡ ở Huế, ngân lên những cảm xúc nhẹ nhàng của tuổi học trò như dòng Hương Giang ngàn năm xuôi về phá Tam Giang rồi ra biển.

Tiếp theo là những hoa tím đua nhau khoe sắc tràn ngập cả lối đi làm nhớ lại bài thơ Màu tím hoa sim” của Hửu Loan. Hình ảnh những đồi hoa sim lại hiện về khi tôi cùng bạn bè rong ruổi đạp xe qua các vùng đồi núi miền Trung Việt Nam trong các dịp nghỉ hè.

Có những bông hoa nhỏ xíu không tên đủ màu sắc, mọc trong hốc đá, len lỏi giữa hàng rào hoặc chen chúc trong các sân cỏ xanh làm trái tim tôi rung động vì cái màu tim tím đó.

Tất cả những hoa đẹp trong mùa xuân nầy phần đông đều là do bàn tay mềm mại chăm sóc của các bà nội trợ sau thời gian rãnh rỗi.Đây không phải là những loại hoa chọn lọc được trồng theo thiết kế tại các vườn hoa nổi tiếng tạo thành một tấm thảm hay một bức tranh đầy màu sắc để bán hay cho du khách chiêm ngưỡng. Hoa hàng xóm đơn sơ, mộc mạc nhưng là những tác phẩm của những cư dân sống trong vùng và tùy thuộc vào văn hóa của mỗi gia đình và sự ưa thích của mỗi dân tộc.

Người Viêt Nam, ngoài trồng hoa lại thích trồng thêm vài cụm rau thơm hay vài cây ớt hiểm.Nhờ khí hậu tốt nên miền Nam cali quanh năm suốt tháng đều có rau xanh, cây trái, hoa quả. Người Việt Nam đi đâu cũng mang theo quê hương và rồi biến nơi mình ở thành quê hương thứ hai.Ngoài rau trái, đường sá ở quận Cam thỉnh thoáng lại có những tà áo dài với chiếc nón lá hay những chiếc áo bà ba căn đầy sức sống trong những ngày hội, ngày Tết.
hoa_hang_xom_nien_truong_3_nguoi
Hình niên trưởng. NT Nguyễn Bá Trang,NT Nguyễn Xuân Sơn và phu nhân. Hình của Tam Giang.
Nhờ nắng ấm nên hằng năm các hội đồng hương, hội các trường xưa ở Việt Nam, hội cựu quân nhân các Quân Binh Chủng VNCH thường tìm về Nam Cali để hội ngộ với những Đặc San thơ văn đầy ắp tình bạn, tình chiến hữu, tình thầy trò, tình đông hương.

Tôi lại nghĩ về những mùa hè của tuổi trẻ thời mới vào lính đi thực tập trên các chiến hạm.Bây giờ gặp nhau, bao nhiêu câu chuyện được bạn bè miên man kể theo dòng thời gian, từ chuyện đi thật xa qua Mỹ lãnh tàu, sửa chữa tàu cho đến những chuyến huấn luyện thực tập ngoài khơi.Lúc đó hình ảnh màu xanh của biển, màu áo xanh của người lính làm việc và chiến đấu vẫn còn in sâu trong trí nhớ.

Có những chiếc áo xanh ướt đẩm mồ hôi của những thủy thủ dưới cái nắng chói chang để gỏ sét trên bong tàu.Có những chiếc áo xanh ướt đẩm mồ hôi và máu bên các khẩu đại liên 30, 50 hay bên các khẩu đại bác 20 ly, 40 ly, 76 ly, 127 ly khi đối mặt với quân thù.Nhưng cũng có những người lính biển dạng dày gió sương nhưng khi bước chân lên các đảo Hoàng Sa,Trường Sa bạt ngàn gió biển cùng muôn cánh chim lạ thì lại trở nên vụng về, ngây thơ như đang lạc vào chốn thần tiên của hoang đảo.

Còn nhiều câu chuyện để kể về người lình biển VNCH như những ngày tuần tiểu Hoàng Sa và Trường Sa, những ngày ra các đảo ấy dựng bia chủ quyền.Những ngày tháng đó, những công việc quen đó, đọng lại thành kỷ niệm cho những thủy thủ già xa quê hương. Đó là những dòng chảy bền bỉ theo thời gian dù đã gần 40 năm dài xa cách.


Màu xanh của người lính biển ngày xưa và màu xanh hoa lá cành của nhiều người Việt đang sinh sống dù bất kỳ ở nơi đâu nhiều lúc găp nhau và giao thoa. Khi nghe tin ngày 20/3/2013 một tàu đánh cá của VN bị tàu Trung Cộng bắn cháy khi đang hành nghề tại Hoàng Sa, người Viêt Nam nào nghe tin nầy mà không đau xót.

Tôi còn nhớ, năm 1963-1964, khi phục vụ trên Hộ Tống Hạm Vạn Kiếp (HQ 02) dưới đời Hạm Trưởng HQ Đại Úy Bùi Huy Phong, chiến hạm đươc biêt phái ra Hải Khu Đà Nẵng.Chỉ huy trưởng Hải Khu lúc bấy giợ là Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Bá Trang.Lúc đang tuần tiểu ngoài khơi Đà Nẩng thì được lênh của Hải Khu ra Hoàng Sa để bắt một số ghe đanh cá của Trung Cộng đang đánh cá tại Hoàng Sa.Tin tức nầy có được nhờ phía Mỹ báo cho Vùng 1 Chiến Thuật và Vùng 1 báo cho Hải Khu Đà Nẳng.Chiến hạm liền trực chỉ Hoàng Sa.

Đây là những ghe đánh cá của các hợp tác xã ngư nghiệp Trung Cộng đi từ đảo Hải Nam xuống biển Đông.Các ghe đánh cá nầy dài khoảng 30 mét, rộng 4 mét làm bằng gỗ, chạy bằng buồm.Hằng năm theo gió mùa Đông-Bắc (từ tháng 9 đến tháng 12), các ghe đánh cá nầy căn buồm chạy xuống đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Khi đã đến vùng Hoàng Sa thì họ kéo buồm xuống và dùng chèo để di chuyển và đánh bắt cá.Gặp lúc biển động, họ neo ghe gần đảo rồi đổ bộ lên đảo trú ẩn.Đến mùa gió Đông-Nam (từ tháng 5 đến tháng 9), khi ghe đầy tôm cá, họ lại căn buồm theo gió chạy trở về lại đảo Hải Nam.

Lúc bấy giờ chiến hạm đã cho người xuống ghe khám xét.Trên ghe có khoảng 10 ngư dân, ngoài dụng cụ đánh bắt cá, ghe có những hầm chứa cá khô, hầm nước ngọt.Nhiều bao muối để muối cá và những bao gạo, bắp khô và những bao củ cải muối để làm lương thực trong nhiều tháng. Cá tôm bắt được đều làm sạch phơi khô, sau đó ướp với muổi hột rồi chất đầy trong các hầm trống.Thời đó, ngư dân Trung Cộng trông ốm yếu và thiếu quần áo. Sau khi làm các thủ tục khám xét, chiến hạm đã đưa các ghe đánh cá nầy về giao cho Hải Khu Đà Nẵng.

Ngày 2-4-2013, nhân khi găp mặt cựu HQ Đại Tả Nguyễn Bá Trang vá cựu HQ Đại Tá Nguyễn Xuân Sơn tai Nam Cali, tôi có hỏi NT Trang về viêc băt giữ và cách giải quyết các ghe đánh cá của

Trung Cộng tại Hoàng Sa thời đó thì NT Trang cho biết: “Hải Khu Đà Nẵng đã đối xử tử tế với các ngư dân Trung Cộng, giúp họ thực phẩm tươi nhất là thuốc lá. Sau đó chính phủ VNCH qua trung gian Lảnh Sự Quán Anh tại Đà Nẵng đã can thiệp.Cuối cùng các ghe của Trung Cộng và nhân viên vi phạm được thả về lại Hải Nam”.
hoa_hang_xom_hoa
Hình hoa California.
Trong thời gian tuần tiểu vùng đảo Hoàng Sa, các chiến hạm VNCH thường găp nhiều ghe đánh cá của ngư dân Đà Nẵng và ngư dân đảo Lý Sơn còn gọi là cù lao Ré thuộc tỉnh Quảng Ngãi.Dân cư cù lao Ré ngoài làm nghề cá còn có nghề trồng tỏi và trồng hành.Các chiến hạm VNCH thường neo tại cù lao Ré để đi chợ và nghỉ ngơi.Đây cũng là dịp các thủy thủ trên các chiến hạm làm quen với các cô thiếu nữ trên đảo.

Những năm sau tôi lại đi chiếc Hải Vận Hạm Hương Giang (HQ 404) mà Hạm Trưởng lần lượt là Hải Quân Đại Úy Nguyễn Quang Dật và Hải Quân Đại Úy Võ Duy Ninh. Chiến hạm HQ 404 biệt phái ra Đà Nẳng để tiếp tế và chở các Đại Đội Địa Phương Quân ra trấn giữ đảo Hoàng Sa hoặc chở họ về Đà Nẵng sau sáu tháng ở đảo. Tôi cũng đã nhiều lần lên đảo Hoàng Sa, nhưng thời đó, ngoài những dãy nhà tôn cho đại đội ĐPQ và đài khí tượng còn có một cái miểu nhỏ xây cất từ thời nhà Nguyễn.Toàn bộ đảo là một dãy cát vàng dài chưa tới 500 mét với nhiều cây cỏ thấp trong đó nhiều nhất là cây mắc cỡ.

Cây mắc cỡ thân có gai, ban đêm lá xếp lại hoặc khi ta chạm vào cây thì toàn bộ lá xếp lại như các cô gái xuân e ấp, thẹn thùng gặp người yêu.Hoa mắc cỡ là loài “Mimosa Pudica”có lông tơ mịn và màu tím nhạt hay gọi là hoa trinh nữ thẹn thùng nhưng kiêu sa.

Bây giờ ngồi trên đất Mỹ, nhìn hoa hàng xóm và nhớ lại hoa trinh nữ trên đảo Hoàng Sa mà lòng thấy xót xa cho một đất nước Việt Nam thân yêu.

Tam Giang Hoàng Đinh Báu

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.