Hôm nay,  

Tin Nghe Được Không Vui

04/06/201300:00:00(Xem: 14164)
Trong những tuần lễ thứ 19, 20, 21 của tháng 5 năm 2013, nghe tin trên các đài RFA, RFI tiếng Việt, chúng ta là người đã vượt biển tìm tự do từ sau 30-04-1975 và mãi đến thập kỷ 1990 mới tạm chấm dứt khi các trại tỵ nạn ở Đông Nam Á đóng cửa, và tình trạng những người vượt biển tìm tự do Việt Nam chỉ chấm dứt khi cộng sản Liên Xô sụp đổ vào những năm ở cuối thế kỷ 20. Ngày nay 38 năm sau vẫn còn có những chuyến hải hành tìm tự do cũng xuất phát từ Việt Nam, và họ đã tìm đường đi thật xa tới thẳng nước Úc, vì biết rằng các quốc gia như Thái,Indonesia, Malaysia,Phi không nơi nào còn trại tỵ nạn cho họ trú chân, họ đến Úc để hy vọng họ được cứu vớt.

Nhưng quốc gia Úc đã từ chối tiếp nhận họ và nhốt họ vào các trại tạm giam để chờ phân loại xem họ có thực sự là người tỵ nạn hay không? Là thân phận những người đã vượt biển trong tình trạnh trốn thoát, thiếu thốn, tìm đường ra đi tìm tự do thủa nào; vết thương vẫn còn rướm máu vì tù đầy khi bị bắt bớ trở lại, khi thiếu dầu, thiếu nhớt, thiếu nước uống và lương thực; khi thuyền bị hỏng máy lâm nạn trên biển, khi gặp hải tặc, khi bị hãm hiếp, khi bị giết, bị thảy xuống biển, khi kiệt sức và mỏi mệt vì nhiều ngày lênh đênh trên biển, xin cứu vớt mà những chuyến tàu cứ thản nhiên bỏ đi (xin mời đọc Chuyện kể Hành Trình Biển Đông của Ngụy Vũ), để nhớ lại; những vết thương lòng đó ngày nay vẫn còn rỉ máu vì mất con, mất chồng, mất cha, mất mẹ, mất anh, mất em, mất bạn, mất người thân trong chuyến hải hành trốn thoát mà mình còn may mắt sống sót trong chuyến vượt biên.

Nay nghe được tin như sống lại cảnh ấy, ngày ấy. Bởi là người không phải là sắt là đá, cho nên người viết không thể im lặng dù khi viết ra có mất lòng nhau cũng viết, để thế giới quan tâm và đừng ngoảnh mặt đi khi những người đang bị các chế độ độc tài, nhất là độc tài Cộng Sản Việt Nam. Cứu xét hoàn cảnh của họ khi phải bỏ nước, bỏ các chế độ độc tài mà trốn thoát tìm tự do ở những nơi có tự do, có nhân quyền thật.

1- Tạ ơn.

Vì là người tỵ nạn Việt Nam, mỗi lần có dịp nghe tới, nhắc tới, nhớ tới, lòng người viết lại bùi ngùi xúc động nhớ và biết ơn đến người thuyền trưởng và các thủy thủa đoàn của ông, đã thương mà cứu vớt thuyền nhân tỵ nạn giữa biển đông ngày nào cách nay trên 30 năm, đưa vào trại tỵ nạn Singapore. Có đi vượt biên mới cảm thông được nỗi lòng của kẻ vượt thoát ra đi tìm tự do, mới cảm nhận được nỗi khốn khổ của những ngày phải ngồi bó gối trong hầm tàu nóng bức trong khi biển khơi thì lộng gió, nước uống thức ăn tiếp từng giọt, từng miếng khi đã khởi hành lâu ngày mà chưa đến bến, hay chưa được cứu trên biển. Đó là chưa kể đến gặp cướp biển Thái, hay tàu bị hỏng máy, bị bể thuyền, trôi lênh đênh nhiều ngày trên biển, có những chuyến đã phải xẻ thịt những người bị chết để lấy lương thực ăn, và lấy máu để uống vì quá đói và quá khát. Những lúc nguy cấp này chỉ còn chọn giữa hai sự sống và sự chết. Thực vậy, người viết khi vào đến trại tỵ nạn Singapor mấy ngày sau mà mỗi lần đi ở trong đất trại nó vẫn còn bồng bềnh như lúc còn ở trên tàu vượt biên trên biển. Phải cả tuần sau mới hoàn lại bình phục, mới biết mình còn sống và đến được vùng trời tự do.

Tạ ơn những người cứu vớt người tỵ nạn trên biển. Ta còn phải tạ ơn những quốc gia đang có trại tỵ nạn ở trên đó như: Thái, Indonesia, Hồng Kông, Singapore, Phi Luật Tân, vì những trại này là chỗ chứa chân, cho người tỵ nạn Việt Nam tạm dung thân đầu tiên để chờ làm thủ tục đi định cư ở các quốc gia khác. Tạ ơn Cao Ủy tỵ nạn, các người hảo tâm đã bỏ của, bỏ công tình nguyện làm việc để vận động thế giới rủ lòng thương người tỵ nạn Việt Nam vượt đại dương đi tìm tự do. Không có những tấm lòng ấy thì không có người tỵ nạn Việt Nam. Không có những tấm lòng ấy thì còn vô số người bị chết chìm giữa biển khơi, mà con số ước lượng của Cao Ủy Tỵ Nạn không phải là khoảng 500.000 mà có khi đến trên 1.000.000 người bị chết chìm giữa biển khơi. Cho nên người đi vượt biên ngày đó đời đời nhớ đến các vị ân nhân đó, nhờ họ mà ta có sự sống như ngày hôm nay.

2- Xin một ơn huệ.

Xin các nước tự do tư bản nhận các người tỵ nạn Việt Nam bằng thuyền hay bằng bất cứ một phương tiện nào mà đến được đất nước có tự do của quý vị, không chỉ người Việt Nam mà thôi, mà tất cả những dân tộc khác, những dân tộc còn đang bị áp bức dưới các chế độ độc tài. Xin hãy cứu xét tỷ mỉ hoàn cảnh tỵ nạn của họ, đừng trả họ về nếu họ về mà bị áp bức, tù đầy.

Cũng xin cứu xét lại những người được nhận là tỵ nạn chính trị thủa trước, dù họ là Việt Nam hay các dân tộc khác, mà lúc ra đi tìm tự do đã trên 21 tuổi (không kể những người đi theo diện đoàn tụ gia đình) mà khi họ đã trở về quê hương đất nước họ nhiều lần không bị bắt bớ hành hạ, những người đã về và làm ăn hợp tác với cái chính quyền mà thủa trước chính họ đã trốn thoát ra đi. Xin trả ngay họ về để lấy nhà lấy chỗ nhận những người khác, vì con, cháu chúng tôi khi đi làm phải đóng thuế để xây dựng xã hội, duy trì đới sống an sinh xã hội của quý quốc gia đã tiếp nhận và cho phét chúng tôi tới định cư ngày trước.

3- Tránh xa sự lừa đảo của CSVN lần nữa.

Như mọi người đã biết, Cộng Sản mới có mặt trên địa cầu khoảng 100 năm, đã tàn sát dã man khoảng 100.000.000 người bằng đủ các hình thức, từ năm 1989 khi Cộng Sản Liên Xô sụp xuống, kéo theo cả một hệ thống các nước bị theo chủ nghĩa này bằng bạo lực, chỉ còn lại vài nước hậu thân của Cộng Sản là Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn và Cu ba. Những nước này chỉ còn lý tưởng Cộng Sản theo hình thức, chỉ còn cái vỏ bên ngoài, vì CS nguyên thủy không có CS đỏ, không có CS có hàng tỷ đô la. Nhưng bên trong đã chuyển sang các chế độ độc tài quân phiệt và cảnh sát phiệt, chuyên môn bưng bít và lưà dối người dân ở trong nước bằng đủ mọi mánh khóe lừa gạt, và lừa gạt cả thế giới tự do về tự do dân chủ. Đảng cộng sản Việt Nam là hậu thân của đảng cộng sản Liên Xô, được đem vào Việt Nam do Hồ Chí Minh từ những năm 1930, suốt 80 năm qua, dân Việt Nam toàn được ăn bánh vẽ, toàn bị lừa, hết bị lừa lớn đến bị lừa nhỏ, đến nỗi ngày 30-04-1975 dân Việt cả Nam lẫn Bắc thấy rõ bị lừa, đã tìm cách trốn thoát đến tận các các nước tự do tư bản ở trời Âu mà Cộng Sản Việt Nam vẫn lừa, bằng cách đem nghị quyết 36 ra để lừa gạt những người đã trốn thoát nó. Gây phân tán, chia rẽ cộng đồng Việt Nam tỵ nạn ở hải ngoại. Chuyên dùng xảo ngôn để lừa gạt: lúc trốn thoát bị bắt lại thì quy tội phản quốc, được nước thứ ba cho định cư xong trở về thì trở thành “việt kiều yêu quái hay là yêu nước”; người mang tội phản quốc ngày nào, chạy theo “Mỹ, Ngụy” theo tàn dư rác rưởi của Mỹ, Ngụy ngày nào mà khi trở về lại là: “khúc ruột ngàn dặm” hay khúc ruột thừa mà có đô la.

Cộng Sản đã dùng xảo ngôn mà lừa người Việt từ thế hệ này sang thế hệ khác:

Thủa đầu mới đem chủ nghĩa Marx- Lenin về đất nước thì lừa những người yêu nước thời đó, những kẻ đã đem tiền của vàng bạc nuôi cộng sản thì cộng sản đem ra đấu tố giết sạch trong cải cách ruộng đất. Những đảng phái yêu nước khác tư tưởng của Hồ Chí Minh thì bằng mọi cách chúng tiêu diệt hết, chỉ những người đã nhận ra bộ mặt thực của CS hay sớm nhận ra thì mới tìm đường trốn thoát khỏi vòng tay kiềm tỏa của chúng như Vua Bảo Đại, Ngô Đình Diệm v. v. . . Ngày 02-09-1945 cũng nhờ lừa khéo mà có cơ hội tuyến bố độc lập tại vườn Hoa Ba Đình ở Hà Nội. Tháng 7-năm 1954 Hiệp định Paris ký kết để chia đôi đất nước, cũng toàn do ngưới nước ngoài chủ động. Từ vĩ tuyến 17 trở ra theo chủ nghĩa cộng sản do HCM lãnh đạo, từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam đi theo chủ nghĩa tư bản do thủ tướng Ngô Đình Diệm lãnh đạo, có đến khoảng một triệu người bỏ miền Bắc nơi chôn nhau cắt rốn di cư vào Nam theo chế độ tự do. Đời sống của miến Nam từ 1954 đến 30-04-1975 được tự do và phú túc.

Nhưng khi chia đôi đất nước rồi, ở miền Bắc CSVN theo gương của CS Trung Cộng đánh tư sản mại bản, cải cách ruộng đất, giết sạch những người có công bỏ vàng bạc tiền của ra nuôi cách mạng thủa trước, biến miền Bắc trở nên nghèo xơ xác, chính sách hộ khẩu được triệt để áp dụng để vận động cả miền Bắc, nhất là giới trẻ để giải phóng miền Nam sau này. Thật họ đã bị lợi dụng, lừa bịp đến nỗi khi đến tuổi mà không đầu quân vào Nam thì không có hộ khẩu để mua lương thực, cha mẹ, gia đình cũng bị họa lây, nên mọi nhà có con thì đều phỉ đi vào lính để vào Nam gọi là đánh Mỹ Ngụy thực hiện chiến tranh giải phóng, giải phóng khỏi sự giầu có thịnh vượng của miền Nam cho nghèo đói như miền Bắc xã Hội chủ nghĩa, cho nên mới có ngày 30-04-1975.

Đường mòn Đường Trường Sơn đã giết bao nhiêu người trẻ ở miền Bắc, di chuyển bằng đường bộ, chết vì bệnh hoạn, chết vì B-52 bỏ bom. Có đọc những buổi liên hoan tiễn người yêu, tiễn con đi Nam hay nhật ký của Thùy Mai bị chết trên đường mòn HCM khi vào Nam mà một người quân nhân Mỹ xuất bản sau này thì mới thấm thía cái lừa của giới trẻ miền Bắc, nhất là khi thoát chết trên đường đi vào đến Nam, thấy được miền Nam trù phú mới bừng tỉnh như nhà văn Dương Thu Hương vào đến Sài Gòn sau ngày 30-04-1975.

Sau 38 năm gọi là thống nhất đất nước, chế độ tồn tại một phần nhờ tiền của nước ngoài, của người ra đi tỵ nạn sau ngày 30-04-1975, những người mà lúc ra đi bị chụp cho cái tội phản quốc. Từ những năm đầu và cho đến nay lừa mỗi năm lên đến khỏang 11 tỷ đô la. Đúng, CSVN là tên siêu lừa đảo, xứng đáng là đàn em của Cộng Sản Trung Cộng. Vì mức độ lừa đảo của CSVN hay như vậy, nên từ người già cả đã có nhiều năm kinh nghiệm sống với cộng sản, đã từ Bắc chạy vào Nam để xa lánh bọn CS, rồi từ Việt Nam vượt biên, vượt biển trốn qua Mỹ, qua các nước có tự do trốn Cộng sản mà vẫn bị lừa, nên mới đem tiền, đem của và về thăm cộng Sản Việt Nam.

Cộng Sản Việt Nam chẳng những lừa một cá nhân, một cộng đồng mà còn lừa cả những người đã từng lãnh đạo tinh thần cả một tập thể lớn chống cộng, về hợp tác với cộng sản, thì chúng ta rõ sở trường chuyên nghiệp của cộng sản Việt Nam lừa đảo tinh vi đến mức độ nào. Thực tế, chỉ cần những người Việt ở nước ngoài không bị lừa gạt, không bị CS dụ dỗ về thăm nhà, thăm quê, về để chết thì tự động chế độ sẽ tản hàng ngay không tiêu tốn một viên đạn. Chuyện đó chưa đến vì người Việt tỵ nạn ở hải ngoại vẫn còn bị CSVN lừa.

Đến bao giờ dân Việt Nam tôi hết bị lừa, và các thuyền nhân Việt Nam không còn trốn thoát ra đi đến bờ biển Úc nữa để tin nghe được không còn buồn./-

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.