Hôm nay,  

Hư Thực Về Đảng Cộng Hoà – Phần II

04/06/201300:00:00(Xem: 18563)
...Obama đắc cử nhờ phiếu của 98% dân da đen, 75% gốc Nam Mỹ, 70% da vàng...

Trên số báo này, như đã thưa cùng quý độc giả, kẻ viết này bàn tiếp tục về một vài “tội” mà một độc giả của Việt Báo đã nêu lên về đảng Cộng Hoà.

1. “CH chống đối mọi chính sách bảo vệ nhân quyền từ ngàn xưa, kể cả bảo vệ nhân quyền của người Mỹ da đen.

“Từ ngàn xưa” nghe hơi quá xa khi đảng CH chỉ mới được thành lập có hơn 100 năm nay. Chỉ cần đi ngược dòng lịch sử hơn một trăm năm thì cũng thấy ông CH Lincoln là người đã phá xích nô lệ cho dân da đen, và chấp nhận nội chiến để bảo vệ chính sách của mình cũng như bảo vệ Liên Bang.

Đi xuống một bực để nhìn vào các tiểu bang, những thống đốc kỳ thị da đen nặng nhất cho mãi đến thập niên 70 chính là các thống đốc DC của các tiểu bang Alabama, Mississippi, Louisiana, Georgia và South Carolina. Năm 1972, Thống Đốc Dân Chủ George Wallace của Alabama ra tranh cử tổng thống hoàn toàn dựa trên chương trình chống dân da đen, không có gì khác. Ông kiếm được gần 20% phiếu, tuyệt đại đa số là cử tri DC, chia phiếu DC khiến ứng viên DC, PTT Hubert Humphrey thua ứng viên CH Richard Nixon.

Gần chúng ta hơn, dưới thời TT Bush cha, thẩm phán da đen Clarence Thomas được bổ nhiệm vào Tối Cao Pháp Viện trong sự chống đối bôi bác tàn tệ nhất của khối DC. Thời TT Reagan, quân lực Mỹ lần đầu tiên có một đại tướng bốn sao da đen, được bổ nhiệm Tổng Tham Mưu Trưởng Liên Quân, tướng Colin Powell. Dưới thời TT Bush con, lần đầu tiên trong lịch sử Mỹ, cả hai ngoại trưởng Colin Powell và Condoleezza Rice đều là dân da màu.

CH chủ trương tự túc tự cường, giảm thiểu tối đa những trợ cấp an sinh. DC chủ trương Nhà Nước vú em, trợ cấp tối đa. Trước hai chính sách đó, việc dân da màu gia nhập vào đảng DC nhiều hơn không có gì lạ, mà cũng không phản ánh đảng CH kỳ thị da màu. CH thật sự có thành kiến với dân da đen nói chung, nhưng không đóng cửa đuổi dân da đen có khả năng thật sự. Nhưng DC lại nhân danh bình đẳng màu da nâng đỡ quá nhiều dân da đen không có khả năng. Bắt các đại học phải nhận đủ túc số sinh viên đen, nếu cần thì phải hạn chế dân da khác, là kỳ thị ngược chiều chống những người có khả năng nhưng không phải da đen. Thẩm phán TCPV Thomas cho rằng luật bình đẳng này là sự sỉ nhục cho dân da đen vì coi như họ không đủ khả năng, cần phải có túc số bắt buộc để được nhận vào các trường.

2. “CH thúc đẩy cho các hãng bảo hiểm tụ lại từng tiểu bang, không cho dân của tiểu bang này mua bán bảo hiểm với các hãng bảo hiểm thuộc tiểu bang khác dù rằng các hãng bảo hiểm đó tốt và rẽ hơn…”
Nước Mỹ là một liên hiệp của 50 tiểu bang, mỗi tiểu bang đều có rất nhiều quyền hành trong các vấn đề tự trị nội bộ, như chính trị, xã hội, y tế, giáo dục, văn hóa,... Chỉ có hai khu vực mà quyền hành của tiểu bang bị giới hạn là ngoại giao và quốc phòng.

Chuyện các công ty bảo hiểm hành nghề tại các tiểu bang hoàn toàn tùy thuộc vào luật lệ riêng biệt của mỗi tiểu bang. Các công ty muốn bán bảo hiểm y tế tại tiểu bang nào thì phải được tiểu bang đó chấp nhận, tức là phải tuân thủ luật bảo hiểm của tiểu bang đó, có thể rất khác xa từ tiểu bang này qua tiểu bang nọ.

CH không hề “không cho dân của tiểu bang này mua bán bảo hiểm với các hãng bảo hiểm thuộc tiểu bang khác”, mà đó là quy luật từng tiểu bang mà Hiến Pháp quy định trong tinh thần tôn trọng tính tự trị của các tiểu bang. Chuyện này chẳng liên hệ gì đến CH hay DC hết.

3. “CH đòi hỏi dân chúng phải tự mua bảo hiểm lấy khi họ còn nắm lấy chính quyền nhưng khi thời DC lên thì họ lại đổi vị thế, nhất định chống và cho rằng Obamacare là chương trình ép buộc dân chúng trái phép như các nhà độc tài, đi ngược lại hiến pháp của HK. Tới khi TCPV phán quyết rằng Obamacare hợp hiến thì làm bằng mọi cách để ko thực thi luật Obamacare rất ư là hợp hiến này.”

Câu chuyện Obamacare hợp hiến hay không phức tạp hơn nhiều.

TT Obama đưa ra luật cải tổ y tế, trên căn bản, điều khoản quan trọng nhất là bắt tất cả mọi người phải mua bảo hiểm y tế, ai không mua sẽ bị phạt. Khối bảo thủ và CH phản đối, coi như đây là hành động vi phạm tự do cá nhân, đồng thời cũng đã đi quá quyền hạn của chính quyền Liên Bang. Phe CH cũng tố cáo tiền phạt thực tế là một hình thức thuế liên bang, và nếu là thuế thì sẽ có nhiều hệ quả quan trọng, chẳng hạn như không đóng thuế thì có thể đi tù, có thể bị IRS sai áp nhà, khấu trừ lương.

Nhiều tiểu bang đã thưa kiện, và do không bên nào chịu thua bên nào, nên nội vụ đã lên tới Tối Cao Pháp Viện.

Quyết định của TCPV, đặc biệt là của thẩm phán John Roberts, Chủ Tịch TCPV, đã là một tuyệt tác của nghệ thuật đi dây chính trị, chẳng nghiêng về phe nào. TCPV phán quyết là Obamacare, theo như diễn giải của TT Obama, không mua bảo hiểm thì phải đóng tiền phạt là bất hợp hiến và không áp dụng được. Tuy nhiên, vì tiền phạt thực sự là một hình thức thuế, nên Obamacare trở thành hợp hiến, vì Hiến Pháp quy định chính quyền Liên Bang có quyền ra luật thu thuế trên cả 50 tiểu bang. Mặt khác, TCPV cũng phán chính quyền Liên Bang không có quyền áp đặt Obamacare lên các tiểu bang. Do đó, những chuyện như thành lập các trung tâm phối hợp –exchanges- cũng như bành trướng Medicaid, là thuộc thẩm quyền tiểu bang, và tiểu bang có quyền từ chối không thi hành.

Vấn đề rất phức tạp, nhưng đại cương là như thế.

Trở lại vấn đề vị độc giả nêu lên, trước hết chuyện CH “đòi hỏi” mọi người phải mua bảo hiểm, và TT Obama “bắt buộc” mọi người phải mua bảo hiểm nếu không sẽ phải đóng thuế thay thế, là hai chuyện khác nhau một trời một vực, khác nhau ở điểm “bắt buộc nếu không sẽ bị đóng thuế”, rồi không đóng thuế là đi tù, là điều CH không bao giờ chủ trương.

Sau đó, chuyện Obamacare vi hiến hay hợp hiến chỉ là vấn đề định nghiã của “tiền phạt”. Ông Roberts đã hết sức sáng tạo tìm ra giải pháp thỏa mãn phần nào cả hai bên, nhưng cũng gây bất mãn cho cả hai bên. TT Obama được thoả mãn vì Obamacare không bị thu hồi, nhưng bất mãn vì mang tiếng là chế ra một thứ thuế mới. Phe CH thỏa mãn vì chứng minh được tiền phạt đúng là tiền thuế, nhưng thua nặng hơn vì Obamacare không bị thu hồi.

Nhưng rồi phe CH cũng đã thắng điểm trong vấn đề thi hành Obamacare tại các tiểu bang, đưa đến chuyện cho đến nay, hơn hai chục tiểu bang vẫn không thi hành việc thành lập các trung tâm phối hợp và nới rộng Medicaid, một quyết định được TCPV nhìn nhận là hợp hiến.

4. “CH chủ trương đánh thuế lên kẻ đi làm … nhưng lại cho những kẻ đầu tư đóng thuế thật ít.”

Chủ trương “đánh thuế lên kẻ đi làm” chính là chủ trương của DC trong khi CH luôn luôn chủ trương càng bớt thuế càng tốt. Do đó, nói CH “chủ trương đánh thuế lên kẻ đi làm” là nói ngược ngạo vớ vẩn. Mức thuế thấp mà hầu hết mọi người đang hưởng là nhờ TT Bush cắt năm 2003. TT Obama đòi tăng thuế tất cả những ai có lợi tức trên $200.000. Phe CH kịch liệt phản đối, cuối cùng thoả thuận tăng thuế cho mức lợi tức từ $400.000 trở lên, giúp cho những người có lợi tức giữa $200.000 và $400.000 khỏi bị tăng thuế. Ai đòi đóng thuế lên kẻ đi làm nhiều hơn? Ai tranh đấu để cắt bớt thuế cho kẻ đi làm?


Nói CH muốn đánh thuế “kẻ đầu tư”, tức là nhà giàu “thật ít” cũng chỉ là cố tình bóp méo. CH cũng như DC đều chấp nhận hệ thống thuế lũy tiến, càng giàu, mức thuế đóng càng cao. Những người giàu nhất bây giờ đóng thuế ở mức 35% lợi tức, trung lưu đóng trung bình 15%-20%, và 40% dân không đóng một xu thuế nào. CH chống lại chủ trương của DC đòi tăng mức thuế cao nhất từ 35% lên 39,5%, chỉ có vậy thôi, chưa bao giờ CH đòi cho nhà giàu “đóng thuế thật ít”.

5. “CH đem những thanh niên ưu tú của HK đi "nướng" cho các mục đích cá nhân như Iraq, nhưng dối trá với dân chúng, với quốc hội và thế giới, làm trò cười cho thiên hạ cả ngàn năm.”

Câu chuyện Iraq là chuyện “viết lại lịch sử” thô bạo nhất. Dưới thời TT Clinton, từ những năm 1997-98, tất cả các chính khách và các viên chức an ninh, từ TT Clinton đến nội các, FBI, CIA, các dân biểu, nghị sĩ của cả hai đảng, và cả truyền thông, dựa trên tin tức của Giám Đốc CIA George Tenet, đều tin như đinh đóng cột là Saddam Hussein có và đã sử dụng vũ khí giết người tập thể.

Dưới đây là trích dẫn vài quan điểm thời đó của các lãnh tụ DC:

- “Chúng tôi khẩn khoản kêu gọi tổng thống, sau khi tham khảo với Quốc Hội, Hiến Pháp và các luật lệ hiện hành, lấy những hành động cần thiết để trả lời một cách hữu hiệu mối đe đọa từ Iraq do việc họ không từ bỏ các chương trình phát triển vũ khí giết người tập thể”. Thư gửi TT Clinton, ký bởi nhiều thượng nghị sĩ DC, trong đó có Joe Lieberman (Connecticut, cựu ứng viên PTT của Al Gore), Dianne Feinstein (California, chủ tịch Ủy Ban Tình Báo Thượng Viện), Tom Daschle (South Dakota, Chủ Tịch Khối Đa Số DC tại Thượng Viện) và John Kerry (Massachusetts, cựu ứng viên tổng thống, đương kim Ngoại Trưởng). 9-1998.

- “Với tư cách thành viên Ủy Ban Tình Báo Hạ Viện, tôi biết rất rõ việc phát triển vũ khí hoá học và sinh học là một vấn đề hết sức quan trọng cho tất cả các quốc gia. Saddam Hussein đã tích cực phát triển kỹ thuật sản xuất vũ khí giết người tập thể, và đó là một mối đe dọa cho các nước trong vùng, và ông ta cũng đã coi thường mọi cuộc kiểm tra.” Nancy Pelosi (DB San Francisco, cựu chủ tịch Hạ Viện). 12-1998.

- “Cộng đồng thế giới có thể sẽ thấy càng ngày càng nhiều những đe dọa kiểu Iraq ngày nay: một nước ngựa chứng –rogue- với vũ khí giết người tập thể, sẵn sàng sử dụng hay cung cấp cho các tổ chức khủng bố những vũ khí đó. Nếu chúng ta không có đáp ứng bây giờ, Saddam và tất cả những tên muốn theo bước chân của ông ta sẽ cảm thấy mạnh dạn hơn trong tương lai.” Bill Clinton (Tổng Thống). 11-1998.

Đó là những tuyên bố trước 9/11, hơn hai năm trước khi Bush vào Tòa Bạch Ốc để có dịp “dối trá” với dân. Trong bối cảnh hậu 9/11, không một chính khách nào, nhất là tổng thống, dám lơ là chuyện Iraq nữa. Chuyện Saddam cung cấp vũ khí hóa học hay bom bẩn (bom nguyên tử “bỏ túi”) cho khủng bố để tấn công Mỹ giống như vụ 9/11 không phải là chuyện hoang tưởng không thể xẩy ra.

Khi TT Bush quyết định đánh Iraq, xin phép quốc hội dựa trên những tin tình báo của ông Xịa Tenet (do TT Clinton bổ nhiệm) cung cấp, cả hai viện quốc hội biểu quyết chấp thuận, trong đó có bà Hillary, ông Kerry, và hầu hết các dân cử tai to mặt lớn của đảng DC. Đích thân cựu TT Clinton tuyên bố ủng hộ hoàn toàn. Cựu PTT Al Gore là người cay cú TT Bush con nhất, phát biểu: “Iraq quả là một đe dọa cho sự ổn định của Vịnh Ba Tư và chúng ta cần phải tổ chức một liên minh quốc tế để ngăn cản Saddam có thể tiếp cận vũ khí giết người tập thể”. Có thể hiểu nếu ông Gore đắc cử tổng thống, thì ông cũng đã vận động một liên minh quân sự và đánh Iraq như TT Bush thôi.

Sau khi TT Bush thất bại không mau chóng ổn định được tình hình, dân Mỹ sốt ruột, bắt đầu chống, thì các chính khách DC nhẩy rào, quay qua tố bị TT Bush “lừa” mặc dù họ đã lớn tiếng báo động chống Saddam từ khi Bush còn đang ở Texas.

6. “Con số theo đảng CH phần đông là vô học, chỉ có bằng Trung học trở xuống, vùng quê, xa thành thị và ở những nơi mà kỳ thị nhiều, trường học kém.”

Đây là một kết luận “mới lạ”. Thực tế ai cũng biết một số lớn cử tri của DC là dân da đen, dân gốc Nam Mỹ, dân nhập cư da vàng, dân lao động, thường tập trung tại trung tâm (downtown) các thành phố lớn, là những nơi có những vấn đề “trường học kém” nặng nề nhất. Khó ai có thể khẳng định đây là những thành phần học thức cao so với dân “CH vô học”.

Đại khái dân Mỹ chia ra như sau: 50% da trắng trung lưu tốt nghiệp trung học, 25% da trắng trí thức tốt nghiệp đại học, 25% dân thiểu số da đen, da nâu, da vàng. Thành phần đầu thiên về CH, hai thành phần sau thiên về DC. Hai bên nghiêng ngửa 50-50. Chính vì vậy mà tranh cử tổng thống luôn luôn nghiên ngửa khít khao mức 50-50. TT Obama đắc cử nhờ phiếu của 98% dân da đen, 75% dân gốc Nam Mỹ, 70% dân da vàng, 60% sinh viên. TĐ Romney thua vì chỉ có 40% dân da trắng trung lưu đi bầu. Phần lớn họ nằm nhà vì Romney không có gì hấp dẫn lắm, trong khi Obama thì không đến nỗi đáng ghét lắm. Thôi thì ... tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, nằm nhà cho xong.

Chính trị nội bộ Mỹ dưới chính quyền Obama đã trở thành phân hoá hơn bao giờ hết trong lịch sử cận đại Mỹ.

Thật ra chuyện phân hoá không có gì lạ. TT Clinton dù là người có lập trường tương đối ôn hoà, đã bị đối lập đánh phá tàn bạo. Vụ Monica đã bị khai thác, đến độ quá đáng bị phản ứng ngược, dân chúng thấy tội nghiệp cho ông Clinton, đâm ra ủng hộ ông mạnh hơn. Đến thời TT Bush thì tuy ông không bị đàn hạch, nhưng sự chống đối của đối lập cấp tiến còn tệ hơn vậy. Ông bị thoá mạ đủ chuyện (thằng ngốc của làng, con khỉ, Hitler,... bây giờ đố anh nào dám bôi bác Obama như vậy?). Đến cái ông tổng thống Carter mà cũng còn dám tuyên bố Bush con là tổng thống dở nhất lịch sử Mỹ, quên mất là mình chỉ có một nhiệm kỳ đã bị mời về hưu non.

Chinh trị phe nhóm đã thống trị cả nước, phần lớn dựa trên guồng máy tuyên truyền, bên nào tuyên truyền giỏi, bên đó thắng, bất kể sự thật. Cho đến bây giờ, coi như đảng DC thắng lớn.

TT Obama, là người ra tranh cử năm 2007-08 với chiêu bài đoàn kết toàn dân, lại là người tạo phân hoá nhiều nhất. Phương thức tranh cử của ông trong kỳ bầu cử vừa qua đã dựa phần lớn trên những lập luận có tính cách xuyên tạc, hù dọa, tô vẽ TĐ Romney như một ác qủy đối với dân nghèo, dân da màu, và dân lao động. Chẳng phải cá nhân TĐ Romney, mà cả đảng CH đã được tô vẽ như một thứ đảng phát-xít tái sinh, bóp méo đủ chuyện, như đã bàn trong hai bài viết này.

Hy vọng hai bài này đã giúp độc giả thấy được một khiá cạnh khác của CH, khác với hình ảnh mà truyền thông dòng chính cấp tiến đã phổ biến từ bao lâu nay, khiến không ít người tin là sự thật tuyệt đối.

Vũ Linh

Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: [email protected]. Bài của tác giả được đăng trên Việt Báo mỗi thứ Ba.

Ý kiến bạn đọc
20/12/201504:45:39
Khách
Càng đọc càng thấy vị độc giả này ngây ngô và nhảm nhí quá.
Cứ bảo người VN trong nước lạc hậu, dốt nát. Sống ở xứ tự do dân chủ nhất TG mà còn thế này??
04/06/201317:07:09
Khách
Chỉ là hadcore dân chủ chuyên lên án thành phần đói lập với mình những điều nhảm nhí,phi logic . Cám ơn VL đã vạch mặt cái mâu thuẫn trong lý lẽ của họ.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.
Trong bối cảnh thế giới đang trải qua những biến động nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và công nghệ, toàn cầu hoá – vốn từng được xem là động lực chính thúc đẩy cho tăng trưởng và thịnh vượng – đang đứng trước những thách thức chưa từng có. Tiến trình công nghiệp hoá và toàn cầu hoá đã đem lại nhiều thành tựu vượt bậc trong suốt thời gian dài qua, từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, đặc biệt là thông qua sự chuyên môn hoá, tự do thương mại và tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, các cuộc khủng hoảng tài chính, đại dịch toàn cầu, chiến tranh và cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc đã khiến mô hình toàn cầu hoá truyền thống bộc lộ nhiều tình trạng bất ổn...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.