Hôm nay,  

Độc Lập, Tự do, Hạnh Phúc

13/07/201300:00:00(Xem: 7785)
Năm nay Lễ Độc Lập Hoa Kỳ rơi vào thứ Năm nên nhiều người được nghỉ kéo dài bốn ngày, đến hết Chủ Nhật. Một cuối tuần vui chơi, ăn nhậu mừng lễ và cùng đón nắng hè với người thân, bạn bè.

Đầu tuần trước, xe BART không chạy. Công nhân đòi tăng lương, đòi thêm quyền lợi hưu trí, bảo hiểm y tế mà ban giám đốc không chấp thuận. Thế là đình công, cầm biểu ngữ xuống đường, tạo trở ngại cho gần nửa triệu cư dân dùng tàu điện đi làm mỗi ngày. BART không chạy nên nhiều người năm nay không vào San Francisco coi bắn pháo bông.

Năm 1976 tôi đón Lễ Độc Lập đầu tiên khi nước Mỹ tròn 200 tuổi. Năm đó đi coi bắn pháo bông ở sân vận động Candlestick, dù đã mặc vào người mấy tấm áo dầy mà vẫn cảm thấy cái lạnh mùa hè San Francisco.

Dịp lễ lớn nhất của Mỹ rơi vào mùa hè, mùa của nhiều thú vui chơi, thư giãn nhất trong năm. Hai tuần trước leo núi Yosemite, nóng như lửa. Tuần này nhiệt độ vẫn trên 100 vì thế kéo nhau xuống biển Santa Cruz. Ở đây có những trò chơi nhào lộn cao tốc cho trẻ con. Người lớn cắm dù, dựng lều, đem lò ra nướng thịt, burger, hot dog. Bia chỉ được uống trên khu vực giải trí, không được mang ra bãi biển. Giới hạn thế, nhưng giấu bia trong thùng đá, khi uống rót vào ly giấy. Nhâm nhi, lai rai.

Đường ra biển sáng sớm đã đông xe, chạy rất chậm. Lúc ngừng tại một ngã tư, thấy trên bảng “Welcome to Santa Cruz” có ghi là thành phố kết nghĩa chị em với nhiều nơi trên thế giới: Nhật, Ý, Tây Ban Nha, Ukraine, Nicaragua, Venezuela.

Tấm bảng là biểu hiện tinh thần độc lập và tự do của dân Mỹ. Kết nghĩa chị em với các nước bạn không nói làm gì, nhưng với Venezuela là điều chú ý vì bao năm nay lãnh đạo nước này hăng hái chống Mỹ, ra rả chửi Mỹ. Bất kể quan hệ ngoại giao hai nước căng thẳng, Santa Cruz vẫn đưa bàn tay thân hữu ra kết nghĩa với Puerto La Cruz.

Trong vụ nhân viên tình báo Edward Snowden tiết lộ bí mật nghe lén của chính phủ Mỹ, Venezuela sẵn sàng đón nhận cho tị nạn.

Và cư dân Santa Cruz cũng ủng hộ Snowden. Trên đường Beach sáng nay có vài chục người cầm biểu ngữ xuống đường hoan hô việc làm của Snowden.

Độc lập, Tự do ở Mỹ là thế. Tổng thống chẳng nhắc đến, người dân cũng không, chỉ thể hiện qua những việc làm và hành động.

Trong khi đó lãnh đạo Việt Nam lại luôn nhắc đến Độc lập, Tự do, Hạnh phúc. Nghe riết, trong các phát biểu của quan chức trên VTV4; đọc riết, trên các báo của nhà nước; và thấy riết trên các giấy tờ, khẩu hiệu và gần đây là trong các phản hồi của những dư luận viên ăn lương nhà nước.
buivanphu_20130710_julyfourth_h01_welcome_resized
Santa Cruz kết nghĩa chị em với nhiều thành phố trên thế giới. (ảnh Bùi Văn Phú)
Có nghe, có đọc nhưng tôi không tin. Vì sao? Nhìn vào hiệp ước biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, nhìn vào những phản ứng hay cảnh báo của một số người trong nước đối với quan hệ Việt-Trung và âm mưu của Bắc triều, mà hệ quả là họ bị sách nhiễu hay phải vào tù. Nhìn vào đường khoanh lưỡi bò 9 đoạn của Trung Quốc, nhìn những lần tàu Trung Quốc tấn công tàu Việt Nam, nhìn vào những chuyến đi của lãnh đạo Việt Nam tới Trung Quốc, tất cả cho thấy sự sợ hãi và lệ thuộc của lãnh đạo Việt Nam vào Trung Quốc là điều có thực.

Lãnh đạo các nước khác trong khu vực như Nam Hàn, Nhật Bản, Malaysia, hay Thái Lan, Philippines, Myanmar không thường xuyên đi Trung Quốc. Trong khi đó Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước, Thủ tướng của Việt Nam lại luân phiên qua hội họp, bàn bạc với Bắc Kinh.

Vì quan hệ Việt-Trung ở tầm mức cao hơn quan hệ Nhật-Trung hay Hàn-Trung? Tôi không nghĩ thế. Trung Quốc chỉ có thể bắt nạt được Việt Nam thôi, với Nhật Bản hay Nam Hàn nào dám.

Vì sao Trung Quốc lại chỉ có thể bắt nạt được Việt Nam. Vì lãnh đạo Việt Nam đã đánh mất tinh thần độc lập, làm suy yếu tính tự chủ của dân tộc đã có từ thuở “Nam quốc sơn hà, Nam đế cư”.

Quan chức nhà nước hay nói đến Độc lập. Nhưng cả nước không có được một tờ báo độc lập của tư nhân. Nhắc đến tự do mà các ban ngành phụ trách thông tin không cho các ý kiến trái với quan điểm của nhà nước được hiển thị, trong khi trả lương cho cả nghìn dư luận viên để viết bài, viết phản hồi với mục đích giải thích chính sách của nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm đánh tan những “tuyên truyền xuyên tạc” của “bọn phản động” trên các mạng thông tin quốc tế và những blog lề trái.

Tự do. Ở Việt Nam chỉ gắn liền với bắt bớ, giam tù vì người Việt ngày nay vẫn chưa có tự do phát biểu, không được biểu tình, không được ra báo, không được hội họp hay lập hội, không được tự do ứng cử.

Nếu có tự do, ở Việt Nam đã có những tờ báo độc lập, nhiều tổ chức xã hội, nghề nghiệp, có nhiều cuộc xuống đường rầm rộ phản đối Trung Quốc lấn chiếm đất biển và mỗi kỳ bầu cử đã nhộn nhịp ứng viên của nhiều đảng chính trị vận động tranh cử.
buivanphu_20130710_julyfourth_h02_bieutinh_resized
Xuống đường ủng hộ cựu nhân viên tình báo Mỹ Edward Snowden. (ảnh Bùi Văn Phú)
Tự do ở Việt Nam, như nhận xét của cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện: “Tự do tôi quí thiết tha, mà sao tù ngục hết ra lại vào.”

Lời thơ từ nửa thế kỷ trước mà bây giờ cũng vẫn đúng. Có thể nhắc đến Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Hồ Thị Bích Khương, Đỗ Thị Minh Hạnh, Trần Huỳnh Duy Thức, Việt Khang, Cù Huy Hà Vũ, Trương Duy Nhất, Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha… là những người yêu nước, yêu tự do mà đang bị tù đày.

Hạnh phúc. Điều này khó đong đếm vì hạnh phúc chỉ là khái niệm tương đối, tùy theo hoàn cảnh của mỗi cá thể.

Một nghiên cứu năm 2006 của Giáo sư Adrien White, Đại học Leicester Anh quốc, đã xếp hạng 178 quốc gia về chỉ số hạnh phúc.

Nhiều nước Bắc Âu sống hạnh phúc nhất: Denmark, Switzerland, Austria là ba nước đứng đầu bảng. Trong khi Congo, Zimbabwe và Burundi ở cuối bảng. Hoa Kỳ xếp hạng 23, Anh quốc 41, Nhật 90, Nga 167.

Nghiên cứu dựa vào những yếu tố làm cho người dân cảm thấy cuộc sống có hạnh phúc nhiều hay ít là điều kiện y tế, mức độ giầu có và nền giáo dục.

Việt Nam được xếp hạng trung bình, bằng với Cambodia, cao hơn Lào, Miến Điện, Ấn Độ, Nga; thua Nhật, Nam Hàn, Thái Lan, Malaysia, Philippines và Trung Quốc.
buivanphu_20130710_julyfourth_h03_baibien_resized
Biển Santa Cruz ngày 4-7-2013. (ảnh Bùi Văn Phú)
Chỉ số hạnh phúc đó có lẽ phản ánh phần nào nguyên nhân khiến nhiều người Việt vẫn còn bỏ nước ra đi.

Hơn ba thập niên trước người Việt ra đi bằng thuyền, bằng con đường đoàn tụ gia đình ODP, diện HO, diện con lai, diện vượt biển hồi hương, bằng đường xuất khẩu lao động.

Nay người Việt chọn con đường du học, đường kết hôn với người nước ngoài. Tìm được lối thoát là họ sẵn sàng rời bỏ nơi chôn nhau cắt rún.

Ừ, thì bảo vì hoàn cảnh gia đình nghèo quá, họ ra đi để tương lai có khả năng giúp đỡ người còn ở lại.

Nhưng người giầu cũng tìm đường ra đi. Càng giầu càng muốn cho con cái sớm được ra khỏi nước bằng con đường du học các nước Úc, Anh, Pháp, Mỹ ngay từ cấp hai.

Nếu ai ra đi và không còn muốn trở về. Điều đó có nghĩa là ở một nơi nào đó họ đã tìm được độc lập, tự do và hạnh phúc.

© 2013 Buivanphu.wordpress.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đến nay, đối với đồng bào ở trong nước và cộng đồng người Việt ở hải ngoại kể từ 30-4-1975, sau 45 năm, những ngày ấy, những năm tháng ấy, không bom đạn trên đầu, nhưng sao trong lòng của mỗi chúng ta cứ lo âu, xao xuyến, sục sôi những chuyển đổi. Không sục sôi chuyển đổi sao được, những tiến bộ Khoa học Công nghệ 4.0, nhất là sự tiến bộ của điện toán, của hệ thống truyền thông, thông tin vượt tất cả mọi kiểm soát, vượt mọi tường lửa, thế giới phô bày trước mắt loài người, trước mặt 90 triệu đồng bào Việt Nam, những cái hay cũng như những cái dỡ của nó một cách phũ phàng.
“Bà X khoảng bốn mươi tuổi, hiện đang sống với chồng và con gái trong một căn nhà do chính họ làm chủ, ở California. Bà nói thông thạo hai thứ tiếng: Anh và Việt. Phục sức giản dị, trông buồn bã và lo lắng, bà X tuy dè dặt nhưng hoàn toàn thành thật khi trả lời mọi câu hỏi được đặt ra. “Bà rời khỏi Việt Nam vào năm 1980, khi còn là một cô bé, cùng với chị và anh rể. Ghe bị cướp ba lần, trong khi lênh đênh trong vịnh Thái Lan. Chị bà X bị hãm hiếp ngay lần thứ nhất. Khi người anh của bà X xông vào cứu vợ, ông bị đập búa vào đầu và xô xuống biển. Lần thứ hai, mọi chuyện diễn tiến cũng gần như lần đầu. Riêng lần cuối, khi bỏ đi, đám hải tặc còn bắt theo theo mấy thiếu nữ trẻ nhất trên thuyền. Chị bà X là một trong những người này.
Tìm được ý nghĩa thực của phương trình từ năm 2012 nhưng không dám công bố vì còn kẹt một bí mật cuối cùng, loay hoay nghiên cứu, tìm tòi hàng năm không giải nổi. Nó nằm trong chữ C² (C bình phương) – bình phương tốc độ ánh sáng. Vật chất chỉ cần chuyển động nhanh bằng (C), tốc độ ánh sáng, là biến thành năng lượng rồi, còn sót cái gì để mà đòi bay nhanh hơn? – C+1 đã là dư. C nhân hai, nhân ba là dư quá lố, vậy mà ở đây còn dư kinh hồn hơn, là c bình phương lận – c nhân với c (186,282 x 186,282) nghĩa là khoảng 34,700,983,524 dặm/ giây!
Sau trận Phước Long 6/1/1975, Hoa Kỳ im lặng, Ủy ban Quốc tế Kiểm soát và Giám sát Đình chiến bất lực, cuộc chiến đã đến hồi chấm dứt. Ngày 10/3/1975, Thị xã Ban Mê Thuột bị tấn công thất thủ sau hai ngày chống cự, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân, cao nguyên Trung phần lọt vào tay cộng sản. Ngày 8/3/1975, quân Bắc Việt bắt đầu tấn công vào Quảng Trị, Quảng Trị mất, rồi các tỉnh miền Trung lần lượt mất theo.
Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình.Các con cần phải học, học và học… Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất hứa.
Tháng Tư lại trở về, gợi nhớ đến ngày cuối cùng, lúc toàn miền Nam rơi vào tay đoàn quân xâm lược từ phương bắc, lần này là lần thứ 45! Trong ký ức của mỗi người dân miền Nam chúng ta, có biết bao nhiêu khúc phim lại được dịp hiển hiện, rõ ràng và linh động như vừa mới hôm qua. Có người nhớ đến cảnh hỗn loạn ở phi trường Tân Sơn Nhất, có người không sao quên được những năm tháng tù tội trong trại giam cộng sản, có người nghẹn ngào ôn lại cảnh gia đình ly tán trong những ngày kinh hoàng đó, và có biết bao người còn ghi khắc mãi những ngày lênh đênh trên sóng nước mịt mù hay băng qua rừng sâu núi thẳm để tìm đến bến bờ tự do.
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” của nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm! Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai. Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn – vào năm 1960 – khi vừa mới biết cầm tiền? Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá được bào nhỏ nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản – hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát – đủ để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi
Chiến tranh Việt Nam có hai chiến trường: Đông Dương và Mỹ. Bắc Việt cố gắng kéo dài cuộc chiến trên chiến trường Việt Nam và đồng thời làm mệt mỏi công luận trên chiến trường Mỹ. Đứng trườc chiến lược này và kế thừa một di sản là sức mạnh quân sự, các tình trạng tổn thất và phản chiến đang gia tăng, Tổng thống Nixon cân nhắc mọi khả năng trong chính sách. Nixon quyết định chỉnh đốn các trận địa chiến cho miền Nam Việt Nam trong khi củng cố khả năng chiến đấu cho họ. Sự giảm bớt vai trò của chúng ta sẽ hỗ trợ cho công luận trong nước Mỹ. Trong thời gian này, Nixon cũng để cho Kissinger tổ chức mật đàm càng nhanh càng tốt.
Bất kỳ chiến lược nào để giảm bớt mối đe dọa từ các chính sách xâm lược của Trung Quốc phải dựa trên sự đánh giá thực tế về mức tác động đòn bẩy của Hoa Kỳ và của các cường quốc bên ngoài khác đối với sự tiến hóa bên trong nội bộ Trung Quốc. Ảnh hưởng của những thế lực bên ngoài đó có giới hạn về cấu trúc, bởi vì đảng sẽ không từ bỏ các hoạt động mà họ cho là quan trọng để duy trì sự kiểm soát. Nhưng chúng ta quả thực lại có những khí cụ quan trọng, những khí cụ này hoàn toàn nằm ngoài sức mạnh quân sự và chính sách thương mại. Điều ấy là những phẩm chất “Tự do của người Tây phương” mà người Trung Quốc coi là điểm yếu, thực sự là những sức mạnh. Tự do trao đổi thông tin, tự do trao đổi ý tưởng là một lợi thế cạnh tranh phi thường, một động cơ tuyệt vời của sự cách tân và thịnh vượng. (Một lý do mà Đài Loan được xem là mối đe dọa đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, chính là vì nó cung cấp một ví dụ với quy mô tuy nhỏ nhưng lại hùng hồn về sự thành công của hệ thống chính trị và kin
Nửa tháng trước hiệp định Genève (20-7-1954), trong cuộc họp tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Cộng), từ 3 đến 5-7-1954, thủ tướng Trung Cộng Châu Ân Lai khuyên Hồ Chí Minh (HCM) chôn giấu võ khí và cài cán bộ, đảng viên cộng sản (CS) ở lại Nam Việt Nam (NVN) sau khi đất nước bị chia hai để chuẩn bị tái chiến. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, Dương Danh Dy dịch, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt".) (Nguồn: Internet). Hồ Chí Minh đồng ý.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.