Hôm nay,  

Bệnh Lý Học Về Hán Tộc

8/2/201300:00:00(View: 12762)
Hán, Phi-Hán, và bệnh nhận vơ....

Ttừ năm 1918, nhà văn Lỗ Tấn đầy ảnh hưởng của văn học Trung Hoa đã có một lời phán đoán lạnh mình: "tình trạng ngoại thuộc khiến người Trung Hoa mất lương thiện và lương tri".

Chẳng những vậy, cũng trong truyện ngắn "Cuồng nhân Nhật ký" (Nhật Ký Người Điên) ông còn dùng ẩn dụ "người ăn thịt người" để nói về nền văn minh Trung Hoa. Cỗ bàn cho những kẻ giàu có và quyền thế. Theo Lỗ Tấn, Trung Quốc là nhà bếp của những bữa ăn ghê tởm này.

Chúng ta khó nói Lỗ Tấn có chủ trương kỳ thị Hán tộc dù rằng ông được du học bên Nhật và mở tầm nhìn ra các nước tiên tiến Tây phương. Chính là vì hiểu thấu thế giới văn minh mà ông muốn cảnh tỉnh đồng bào bằng lối viết châm biếm và sắc bén của một văn hào.

Có lẽ Lỗ Tấn phát giác bệnh "tâm thần phân liệt", schizophrenia, của Hán tộc, khi họ sống với hai nhận thức và trạng thái tâm lý trái ngược. Những gì đang xảy ra tại Trung Quốc còn cho thấy họ mắc bệnh "tự bế" hay "tự kỷ", autism, tự thu vào chính mình mà khỏi cần biết về sự thật khách quan ở bên ngoài....

Sau bài "Trung Quốc Ngàn Năm - Những nhập nhằng của Bắc Kinh và hiểu lầm của thế giới về Trung Quốc" đăng kỳ trước về ngàn năm đã qua của Trung Quốc, kỳ này chúng ta sẽ tìm hiểu tâm lý phức tạp của Hán tộc từ đó nhìn ra những động thái hiện đại của lãnh đạo Bắc Kinh.

Trải qua ngàn năm cận đại của Trung Quốc, nếu tính từ năm 960 khi nhà Đại Tống xuất hiện đến năm 1911 là khi là Đại Thanh sụp đổ trong cuộc "Cách mạng Tân Hợi", Trung Quốc nằm dưới sự thống trị của các dị tộc phi-Hán, không phải người Hán, trong hơn 600 năm. Những sắc dân mà Hán tộc cho là thấp kém man rợ, như Nữ Chân, Khất Đan, Kim, Liêu, Tây Hạ, Mông Cổ, Mãn Thanh, v.v... đã khuất phục và cai trị Trung Quốc trong một thời gian dài hơn hai phần ba.

Một độc giả Phong Vân có thêm lời bình về bài này, người viết xin chia sẻ nguyên văn:

"Bác Nghĩa chỉ tính từ thời nhà Tống là còn nhẹ tay với Hán tộc đó. Thực chất khi nhà Tấn phải thiên đô về Giang Tả vì Ngũ Hồ loạn hoa thì phía Bắc Trường Giang đã là thiên hạ của người Hồ. Đê Tần của Phù Kiên, Tiền Yên & Hậu Yên họ Mộ Dung Tiên Ti, Bắc Ngụy của Thác Bạt Tiên Ti. Hán tộc chỉ có được phong quang nhờ vào chiến thắng Phì Thủy của Tạ An, Tạ Huyền; thêm vào Lưu Dụ lập nên nhà Lưu Tống Bắc phạt; cùng với Dương Kiên lập nên nhà Tùy. Nhưng cũng chỉ truyền được 2 đời lại để Lý Đường vốn là gốc người Đột Quyết thống nhất Hoa Hạ. Rồi về sau Hậu Tấn Thạch Kính Đường người Sa Đà nhờ quân Khiết Đan vào lật đổ Hậu Đường dâng lên Yên Vân thập lục châu trở thành cục gân gà khó nuốt cho Hán tộc từ Đại Tống trở đi."

Ngày nay, lãnh đạo Trung Quốc tại Bắc Kinh hiển nhiên là không quên điều ấy và cũng biết rằng trong tiềm thức của thần dân là một chuỗi ẩn ức.

Nói về Bắc Kinh, thành phố này chỉ thật sự là kinh đô Trung Quốc từ những thời ngoại thuộc.

Từ Tần Thủy Hoàng Đế (năm -221) đến khi Phổ Nghi nhà Mãn Thanh bị truất năm 1911, trải qua 2132 năm, Bắc Kinh không là kinh đô Trung Quốc trong khoảng 15 thế kỷ. Các triều Hán tộc thời xưa đã chọn Trường An (Tây An ngày nay), Lạc Dương, Khai Phong, hay Nam Kinh, thậm chí Trùng Khánh làm thủ đô. Bắc Kinh chỉ là nơi mà họ lên triều cống các dị tộc man rợ ở mạn Bắc, rồi thành kinh sư của nhà Liêu thuộc tộc Khất Đan (dưới tên Nam Kinh), nhà Kim thuộc tộc Nữ Chân (dưới tên Trung Đô), và nhà Nguyên của dân Mông Cổ (dưới tên Đại Đô).

Vào thời Minh, năm 1402, Yên vương Chu Lệ từ đất phân phong của mình ở đấy đưa quân về Nam Kinh cướp ngôi của cháu lên làm Hoàng đế. Vĩnh Lạc đế mở rộng Bắc Kinh thành kinh đô vào năm 1403. Mà bốn phương không phẳng lặng, hai kinh chẳng vững vàng như văn chương viết lại: trong 276 năm của nhà Minh, từ 1368 đến 1644, Trung Quốc có chừng 300 cuộc chiến! Khi nhà Mãn Thanh từ phương Bắc xuống cai trị toàn cõi Trung Quốc, Bắc Kinh lại trở thành kinh đô của dị tộc, cho đến ngày nay....

Từ vị trí và vai trò của Bắc Kinh, chúng ta khám phá ra một quy luật, như một nghịch lý: Trong ngàn năm, lãnh thổ Trung Quốc mở rộng dưới thời cai trị của bốn dị tộc Liêu Kim Mông Mãn và co cụm dưới hai thời Tống Minh của Hán tộc!

Dù bị khinh thường, mà bất chấp, các dị tộc đem lại sự huy hoàng và cả tính chất "đa nguyên" cho Trung Quốc với sự đóng góp của nhiều phần tử ưu tú phi-Hán xuất phát từ Tây Á, Trung Á, Âu Châu. Khi Hán tộc lên cầm quyền thì tinh thần duy chủng, chủ nghĩa "Đại Hán là nhất", lại được khôi phục.

Lãnh đạo Bắc Kinh ngày nay vơ lấy cả hai, hiện tượng tâm thần phân liệt: 1) về địa dư chính trị thì những gì các dị tộc chinh phục được, như Mãn Châu, Nội Mông, Tân Cương hay Tây Tạng, đều thuộc về Trung Quốc; 2) về chủng tộc thì Trung Quốc đó là do Hán tộc làm chủ, các sắc tộc khác đều là phó thường dân, được mặc áo đẹp đi vào Đại hội để chụp ảnh tuyên truyền.


Đấy cũng là lúc chúng ta phát giác ra sự dối trá của ngôn ngữ. Quốc hiệu Trung Quốc - quốc gia trung tâm – là sự nhập nhằng tiện lợi. Và "thiên hạ" là khái niệm tuyệt vời, dưới vòm trời này, cái gì cũng thuộc về Thiên triều của Hán tộc! Sự thật thì trong hai phần ba thời gian ngàn năm, Hán tộc mới là sắc tộc bị trị.

Khoảng thời gian đằng đẵng ấy khiến họ phát triển ra khả năng phân thân, ăn nói nước đôi.

Họ lập hội kín, nói một đàng làm một nẻo vì có chính nghĩa sáng ngời là chủ nghĩa dân tộc dưới ách ngoại bang. Gian với địch nghĩa là trung với ta. Riết rồi gian trung khó định, chính tà bất phân. Lỗ Tấn nói không sai! Sau đó, từ năm 1911 trở về sau, mới là chủ nghĩa bài ngoại, một biểu hiện khác của tinh thần duy chủng, được các chế độ cận đại triệt để khai thác.

Hán tộc còn phát huy một huyền thoại khác, là các dị tộc đều được Hán hóa. Chứng cớ là Liêu Kim Mông Mãn đều lại dùng tiếng Hán và áp dụng chế độ cai trị Khổng nho của người Hán.

Thực tế lại không hẳn như vậy. Chế độ cai trị xuất phát từ tư tưởng Khổng nho và cả Hán ngữ được sử dụng như phương tiện củng cố quyền lực trung ương. Các đế chế của dị tộc thiểu số đều dùng phép "trong bá ngoài vương" để cai trị Hán tộc. Bên trong là kỹ thuật chặt chẽ của pháp gia, bên ngoài được tráng men vương đạo của nho gia để bảo vệ triều đình. Ông thầy Khổng tử bị hàm oan khi còn sống. Sau đó, được đề cao hay giáng cấp hoặc đả phá vì những lý do nằm ngoài lý luận nhân trị, vì thuộc về tính toán pháp trị của các đời sau.

Vì thế, cống hiến của Hán tộc không chỉ có chủ nghĩa duy chủng ethnocentrism mà còn có nghệ thuật cai trị độc tôn, được các dị tộc triệt để khai thác - trên đầu Hán tộc.

Và về văn hóa thì quả rằng cuốn Tự Điển thời Khang Hy hay bộ Tứ Khố Toàn Thư vĩ đại thời Càn Long là những đỉnh cao chói lọi cho hậu thế. Nhưng là thành tựu của triều Mãn Thanh làm rạng danh Hán tộc. Cái danh hão....

Chúng ta trở lại chuyện ngày nay và cái bệnh "tự bế" autism của thiên triều Hán tộc tại Bắc Kinh.

Nhìn ra ngoài thì năm 1919, Đế quốc Ottoman sụp đổ trên một dải đất bát ngát vắt qua ba lục địa Âu-Á-Phi sau khi sắc dân Thổ (Turkish) khởi nghiệp từ năm 1299. Khi ấy, dân Thổ có sự chọn lựa. Hoặc là ôm rơm nặng bụng để giữ lại lãnh thổ cũ của Đế chế suy tàn, bên trong có quá nhiều sắc dân, nào Nam Âu, Phi Châu, nào Ba Tư, Á Rập, Ai Cập, v.v.... Hai là gom lại vùng đất truyền thống, nơi tập trung dân số đông nhất.

Họ chọn giải pháp thứ nhì để lập ra Cộng hoà Thổ Nhĩ Kỳ và hạ phóng các vùng khác. Năm 1928, họ cũng đưa mẫu tự La tinh vào hệ thống quốc ngữ và giữ lại tiếng Thổ được cách tân, nhưng gạt bỏ ảnh hưởng của ngôn ngữ Ba Tư và Á Rập. Đấy là một cuộc cách mạng mấy trăm năm mới thấy một lần. Trung Quốc thời Mao lại không có tinh thần cách mạng như vậy!

Mao Trạch Đông không làm cách mạng về văn hóa và ngôn ngữ mà chỉ cải cách theo kiểu chắp vá. Và về chuyện lãnh thổ lại có những chọn lựa nửa vời, hậu quả của bệnh tâm thần phân liệt.

Thay vì giải phóng hoặc buông bỏ những khu vực của dị tộc để tập trung xây dựng quốc gia trong vùng đất truyền thống của Hán tộc, Mao đòi giữ hết và nhận hết như lãnh thổ của Hán tộc và thi hành chính sách di dân, dời dân, trong nội địa để bảo đảm cái thế thống trị của Hán tộc.

Ngoại lệ và sự nửa vời là dù Mao đòi lại những phần đất bị liệt cường sâu xé vào đời Thanh sau Hiệp ước Bắc Kinh năm 1860 thì vẫn nhường lại cho Liên Xô, hậu duệ của Đế quốc Nga, một dải đất bát ngát tại khu vực Mãn Châu, đất cũ của các tộc Nữ Chân, Khất Đan, Cao Ly, v.v.... Đó là miền Đông Tartary, kéo dài từ hợp lưu của sông Hắc Long giang (sông Amur) với Ô Tô Lý sông Ussuri) tới đảo Sakhalin và bao trùm lên hai thành phố lớn là Khabarovsh và Vladivostok. Ngoài ra, nhiều dải đất khác cũng bất ngờ được thả nổi, như Ngoại Mông nay là Cộng hòa Mông Cổ, hay Cộng hòa Tyva ở miền Nam Tây Bá Lợi Á.

Cho nên ranh giới của Trung Quốc hiện đại là kết quả của nhiều chọn lựa chập chờn phi lý thời "cách mạng". Những chọn lựa này và chánh sách cải tạo và di dân sau đó mới gây vấn đề nan giải cho một xứ có địa dư đa nguyên mà chính trị độc tôn của một sắc tộc.

Khi nhìn thấy lãnh đạo Bắc Kinh còn xây dựng các khu vực chiếm đóng của dị tộc làm vùng trái độn quân sự, nay lại đòi nhoài mình ra Đông hải của xứ khác, ta hiểu ra tâm lý tự bế hay tự kỷ. Họ bất chấp sự thật khách quan ở bên ngoài mà chỉ nhìn thấy những ham muốn ở bên trong.

Họ ôm rơm nặng bụng và có ngày bị báng khi hết đà tăng trưởng. Là chuyện của 10 năm tới....

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.