Hôm nay,  

Nét Việt Ở Havana

24/08/201300:00:00(Xem: 14096)
Đến một đất nước lạ, cùng với tham quan những danh lam thắng cảnh tôi thường tìm hiểu xem ở đó có gì mang dấu tích Việt.

Vừa rời máy bay, gió nóng và ẩm quẹt vào da làm tôi nhớ đến Việt Nam ngay. Trên đường vào Thủ đô Havana, nhìn nhà cửa cũ, tường vôi bạc mầu và phượng đang nở rực là điều gợi nhớ cho tôi nhất về quê nhà.

Đầu tháng Sáu, phượng đang nở hoa. Gần Quảng trường Cách mạng có góc công viên phượng rơi đỏ cả thảm cỏ xanh.

Không biết cánh hoa đỏ có là bạn thân thương của học trò Cuba, như học sinh Việt đã yêu phượng qua văn xuôi của Xuân Diệu, đã nhớ mùa hè qua ca từ của Thanh Sơn: “Mầu hoa phượng thắm như máu con tim/Mỗi lần hè sang kỷ niệm người xưa biết đâu mà tìm” hay của Anh Bằng: “Bây giờ còn nhớ hay không?/Anh đem cánh phượng tô hồng má em...”

Hỏi anh Alejandro, hướng dẫn viên Cuba của đoàn, về tên gọi tiếng Tây Ban Nha, anh nói tên hoa là “flamboyant”, cũng như trong tiếng Anh và tiếng Pháp. Tôi thắc mắc về nguồn gốc tên “Phượng” trong tiếng Việt.

Loại hoa đỏ này nguyên thủy xuất phát từ đâu và sao lại được trồng nhiều ở Hải Phòng, Huế cũng như ở Bangkok, Hong Kong, Lomé, Cancún, Los Cabos mà tôi đã thấy.

Có thể vì sắc hoa đỏ nổi bật vào hè là mùa du lịch nên dễ nhận ra hơn những loại thảo mộc quen thuộc khác ở Cuba, như cây bàng xum xuê lá cũng được trồng nhiều ở đây. Hay như ở một làng quê cách Havana hơn trăm cây số, ngoài phượng còn có luỹ tre xanh và ao hoa súng.

Ngoài hoa lá thân quen, trong bữa ăn trưa đầu tiên ở Havana, gọi ly rượu rum mojito truyền thống Cuba thấy trong đó có vài lá húng nhũi mà người Việt hay ăn với gỏi cuốn, với bún bò Huế.

Những ngày ở Cuba đi đâu cũng thấy phượng nở đỏ và mojito thoảng mùi rượu và húng nhũi là nét Việt thân thương ở xứ sở của Fidel Castro. Còn thức ăn Việt thì sao. Có không. Tôi cũng cố đi tìm.

Với lịch sử quan hệ lâu đời với Việt Nam, tôi tin thế nào cũng có ẩm thực Việt ở đây. Tôi đã nghe biết về một số người Việt sống ở Cuba. Ca sĩ Ái Vân đã từng sang Cuba hát. Nhiều nhà ngoại giao Việt phục vụ tại Hoa Kỳ là cựu du sinh ở Cuba. Chuyện một thời xôn xao là cô Kim Phúc, nạn nhân bị bom lửa trong thời chiến tranh, cùng chồng qua Cuba và trên đường du hành khi máy bay ghé Canada thì cả hai đã xin tị nạn chính trị.

Đã sống qua nhiều nơi, kể cả xứ Togo xa xôi tận châu Phi mà tôi cũng tìm được phở, nem rán; với quan hệ khăng khít Cuba-Việt Nam thay nhau thức ngủ để cùng canh giữ hòa bình thế giới như lãnh đạo Việt Nam đã phát biểu dịp thăm Cuba cách đây vài năm, tôi tin văn hoá Việt ít nhiều có dấu ấn ở Havana.

Gần cuối chuyến du học chúng tôi mới có một buổi chiều được tự do. Anh bạn ở chung phòng và tôi, cùng mấy bạn nữa đi thăm Bảo tàng Cách mạng, trong đó trưng bày nhiều hình ảnh, tài liệu chống Mỹ kịch liệt, như một thời ở Bảo tàng Tội ác Mỹ-Ngụy ở Sài Gòn, này là Bảo tàng Tàn tích Chiến tranh.

Rời bảo tàng khi đã hơn 5 giờ chiều. Mọi người rủ nhau đi ăn ngoài. Tôi nói với cô giáo phụ trách lớp là tối nay tôi muốn đi tìm một nhà hàng Việt.

Khi mới tới Havana, hỏi quầy lễ tân ở khách sạn về quán Việt và được biết có quán Hanoi, nhưng không rõ địa chỉ. Tôi tìm một cuốn niên giám điện thoại của Havana để xem có người Việt hay nhà hàng Việt nhưng không kiếm đâu ra sách này.

Nhờ cô giáo nói với người đạp xích lô là tôi muốn đến quán tên Hanoi. Cô nói tiếng Tây Ban Nha với người phu xe, rồi bảo tôi mau lên vì trời bắt đầu mưa. Cô nói anh ta sẽ đưa tôi đến đó.

Vừa lên xe là trời đổ mưa lớn. Chừng hai mươi phút sau, anh đưa tôi đến trước khu phố có cổng với bảng chữ tàu và những lồng đèn. Anh ra dấu chỉ tay vào đó.
bui_van_phu_cuba_2__resized
Hình ảnh Cuba. (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Tôi xuống xe, trả anh 3 CUC (khoảng 3 USD). Lúc này trời mưa như trút nước nên tôi nép vào hiên đứng chờ. Ngớt mưa tôi băng qua đường vào phố Tàu Havana.

Đi lên đi xuống con phố nhỏ, con hẻm thì đúng hơn, chỉ thấy dăm nhà hàng Tầu. Không thấy quán Hanoi. Tôi quyết định vào một quán, gọi bia và món gà xào với dứa để nhâm nhi cho đỡ đói và chờ ngớt mưa.

Điều lạ ở đây là không thấy người Hoa hay người châu Á nào. Hỏi cô phục vụ có biết quán Hanoi. Tiếng Tây Ban Nha của tôi lõm bõm nhưng cũng hiểu cô nói nhà hàng ở khu Nuevo Vedado, gần khách sạn tôi ở.

Một lúc sau, một cụ bà từ trong bếp bước ra. Bà nói gì đó tôi không hiểu. Cô gái lấy tờ giấy, tôi viết xuống: “Restaurante Hanoi, cocina vietnamesa”. Cụ bà nói, cô gái ghi: “Parque Cristo” và mấy chữ nữa. Tôi hỏi từ đây đến đó đi taxi tốn bao nhiêu tiền và bao nhiêu phút. Cô nói taxi 5 CUC và tốn chừng 10 phút. Đi xích lô đạp, 3 CUC và chừng 20 phút.

Hôm nay là lần đầu tiên tôi đi phố một mình nên cũng hơi lo, dù rằng người hướng dẫn đoàn đã nói với chúng tôi là an ninh ở Havana rất tốt.

Tôi chọn xích lô vì nếu có gì còn dễ nhảy xuống được. Xe chạy qua nhiều con đường. Cũng may trời mưa mát nên tôi không cảm thấy ái ngại cho công sức của người đạp xe khi phải leo dốc hay lách ổ gà.

Đi khá lâu mà chưa thấy nhà hàng đâu. Thỉnh thoảng tôi lại hỏi sắp đến chưa và tài xế cứ nói sắp, sắp hay gì đó tôi không hiểu.

Đi tìm một nơi không hề biết trước làm tôi nhớ đến cặp vợ chồng bạn Mỹ vào hè năm 1987 đã đón xích lô từ khách sạn Continental ở trung tâm Sài Gòn để đi tìm nhà bố mẹ của tôi ở khu Ngã ba Ông Tạ với nhiều lo lắng không biết có đến đúng nơi.

Hôm nay tôi cũng có tâm trạng như cặp vợ chồng bạn, ngồi xe xích lô mà lòng lo lo vì chuyến trước xe đã đưa không đến nơi.

Cuối cùng xe dừng trước nhà hàng có tên Hanoi. Tôi mừng trong lòng. Giá mặc cả trước là 3 CUC, tôi trả anh 5 vì thấy đạp lòng vòng hơi lâu.

Bên trong không một bóng khách. Có thể là còn quá sớm cho giờ cơm tối. Hay tại mưa nên vắng.

Người phục vụ đưa tờ thực đơn, tôi đọc qua không thấy món ăn Việt. Hỏi bằng tiếng Anh ở đây có bán phở không. Anh không hiểu. Tôi hỏi luôn tiếng Việt: “Tiệm có bán phở không anh?” Anh cũng không hiểu và gọi một người từ sau nhà ra. Ông nói tiếng Anh khá lưu loát và hình như là chủ nhà hàng. Tôi nói mình muốn món ăn Việt. Ông trả lời nhà hàng tuy mang tên Hanoi, nhưng không bán thức ăn Việt. Tôi thất vọng.

Rồi ông hỏi tôi có biết về cuộc chiến tại Việt Nam, tôi nói biết. Ông giải thích là khi Việt Nam đánh bại Hoa Kỳ, ông đã thêm “Hanoi” vào tên nhà hàng, nguyên thuỷ là La casa de la Parra, để mừng chiến thắng của Việt Nam.

Tôi gọi cơm với tôm hùm và cá nướng, thêm chai bia Bucanero. Tìm hiểu xem có quán ăn Việt nào ở đây, ông nói không, nhưng cho biết ở Havana có Parque Ho Chi Minh. Hỏi ở đâu, ông không nhớ rõ.
bui_van_phu_cuba_1_resized
Hình ảnh Cuba. (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Có lẽ đây là khu cư dân vì ngồi trong quán ngó ra thấy người đi bộ qua lại. Trước cửa nhà hàng có hai sạp bày bán khoai bắp, cây trái.

Bữa ăn tốn 25 CUC, gồm cả tiền boa, bằng hơn nửa tháng lương của một công nhân viên trong một đất nước vẫn còn chế độ tem phiếu. Như thế tôi không biết nhà hàng Hanoi phục vụ khách thuộc giai cấp nào. Một giờ đồng hồ trong tiệm, chỉ mình tôi là khách.

Rời Hanoi, ra đường nhìn quanh thấy cách đó vài khu phố là toà nhà hành chánh của Thủ đô Havana với kiến trúc như Điện Capitol của Quốc hội Mỹ mà cách đây vài hôm đoàn đã tham quan. Tôi cảm thấy yên lòng, đi bộ về hướng đó, rong chơi Havana về đêm.

Trở lại khách sạn, hỏi hướng dẫn viên về Parque Hồ Chí Minh, anh nói đó là “Parque Acapulco” và giải thích thêm là tượng ông Hồ đã được đặt khoảng 10 năm trước, trong một trao đổi với Việt Nam, theo đó tượng José Martí, anh hùng chống Tây Ban Nha của Cuba được đặt tại Hà Nội.

Sáng hôm sau tôi dậy thật sớm. Vì chỉ còn hôm nay là trọn ngày ở Havana với những sinh hoạt bắt đầu lúc 9 giờ, sau bữa ăn sáng. Mai chúng tôi ra sân bay về lại Hoa Kỳ. Đây là cơ hội còn lại cho tôi tìm đến Công viên Hồ Chí Minh.

Bảy giờ sáng. Mình tôi rời khách sạn. Hỏi đi Parque Acapulco giá bao nhiêu. Tài xế taxi nói 7 CUC, tôi trả giá 5 CUC và nói nếu tài xế đợi ở đó chừng mười lăm phút rồi đưa tôi về lại khách sạn, tôi sẽ trả 10 CUC. Anh đồng ý.

Lên xe, thấy đèn đỏ trong xe báo lung tung làm tôi hơi lo. Sợ xe hư, không về lại khách sạn cho kịp giờ học mà không ai biết tôi đi đâu sẽ phiền nhiều người. Không còn chọn lựa nào hơn vì đã lên xe nên tôi chỉ cầu mong mọi chuyện sẽ như ý.

Xe chạy từ biển về hướng Quảng trường Cách mạng, rẽ phải sang khu vực với nghĩa địa có nhiều ngôi mộ lớn bằng đá trắng, một nghĩa địa có cổng tiếng Hoa.

Hai mươi phút sau đến nơi. Công viên hiện ra trước mặt. Không lớn lắm, chừng một nghìn mét vuông. Nhiều cây xanh. Bên kia đường là rạp hát Acapulco. Tượng bán thân ông Hồ Chí Minh đặt trên bục ở giữa, bên dưới có ghi ngày sinh và mất. Sau lưng tượng là một dãy trúc xanh.

© 2013 Buivanphu.wordpress.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.