Hôm nay,  

Người Mỹ Gốc Việt: Bị Anh Hưởng Chất Độc Da Cam, Đau Khổ Trong Thầm Lặng

9/17/201300:00:00(View: 18829)
Người Mỹ gốc Việt đã không yêu cầu bồi thường cho tác hại của thuốc diệt cỏ, mặc dù có bằng chứng họ đang có tỷ lệ cao hơn của một số bệnh ung thư liên quan với ảnh hưởng chất độc màu Da cam.

San Jose – Sau khi chữa bệnh hóa học trị liệu lần thứ 8, Trai Nguyễn thực sự kiệt sức và cơ thể ông hoàn toàn rệu rã. Người đàn ông 60 tuổi này đang mang trong mình một căn bệnh ung thư hiếm và quái ác, mà theo ông thì nó là kết quả của việc tiếp xúc với chất độc màu Da cam. Một thứ hóa chất làm rụng lá trong chiến tranh Việt Nam.

Các bác sĩ của ông tin rằng bây giờ căn bệnh ung thư của ông có thể thuyên giảm đôi chút, nhưng đó là chút an ủi mà thôi. "Hai tay tôi lắc dữ dội. Tôi không thể làm bất cứ điều gì ", ông chia sẻ với những người thân khi đang ngồi trên nệm trong một căn hộ hai phòng ngủ.

Hậu quả của chiến tranh đã đưa Trai đến Hoa Kỳ nơi ông xây dựng lại cuộc sống của mình nhưng bây giờ thì ông hoàn toàn sống trong túng thiếu. Sự may mắn này đáng lẽ có thể đem lại sự thay đổi tốt hơn điều mà ông có trong quá khứ của mình: Đó là bộ đồng phục ông mặc trong cuộc chiến.

Là một người lính phục vụ trong quân đội Việt Nam Miền Nam, ông Trai tham gia tình báo phục vụ cho lính Mỹ. Ông đã kề vai sát cánh chiến đấu cùng người Mỹ và bị nhiễm chất độc màu Da cam mà được biết là nguyên nhân hủy hoại cơ thể họ. Nhưng ông hoàn toàn không được hưởng những đền bù cũng như chăm sóc y tế dành cho các cựu binh Mỹ bị tàn phế sau cuộc chiến tranh này.

Các cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam sống tại Mỹ, Úc, New Zealand và Hàn Quốc đều được nhận những khoản trợ cấp thương tật từ chính phủ của họ. Canada cũng đền bù cho những công dân bị nhiễm độc thuốc diệt cỏ trong thời gian thử nghiệm hóa chất trước chiến tranh. Văn phòng phụ trách Cựu Chiến Binh của Mỹ cũng chi trả hàng tỷ Đô la cho trợ cấp thương tật cho các cựu binh Mỹ bị nhiễm độc thuốc diệt cỏ. Ngược lại thì những người Mỹ gốc Việt bao gồm những những thường dân và cựu chiến binh cũng từng bị nhiễm độc và hiện đang sống trong ốm đau, bệnh tật thì hoàn toàn không nhận được một cắc nào.

Phần lớn những người Mỹ gốc Việt đặc biệt là những cựu binh Miền Nam Việt Nam, đều không yêu cầu bồi thường cho những thiệt hại gây ra bởi thuốc diệt cỏ, thậm chí có bằng chứng cho rằng họ đang chịu tỷ lệ lớn những bệnh ung thư liên quan đến nhiễm chất độc màu Da cam. Bằng việc đổ lỗi cho hành động của quân đội Mỹ gây ra cho bệnh tật của cộng đồng họ, nhiều người cảm thấy rằng họ đang đứng về Chính phủ Cộng sản Việt Nam và họ coi thường đất nước mới của họ, nước Hoa Kỳ mà họ đang nhiệt thành cống hiến.

Trong hai năm vừa qua, các thành viên Quốc hội Mỹ đã đệ trình bộ luật giúp đỡ những người Mỹ gốc Việt và các nạn nhân bị nhiễm chất độc Da cam trong thời kỳ chiến tranh. Theo nhiều người ủng hộ thì cơ hội thông qua rất mong manh, đặc biệt là thiếu sự giúp đỡ của những người Mỹ gốc Việt và sự ủng hộ của các nhóm cựu chiến binh Mỹ.

Bernard Edelman, Phó Giám đốc về các vấn đề chính sách và công việc chính phủ dành cho các cựu chiến binh Việt Nam của Mỹ (VVA), cho biết rằng ông tin rằng rất nhiều cựu chiến binh người Việt đang phải gánh chịu hậu quả của việc nhiễm chất độc màu Da cam, nhưng nhóm của ông sợ rằng việc ủng hộ họ sẽ làm suy yếu những nỗ lực của họ dành cho các cựu chiến binh người Mỹ. Ông nói “Chúng tôi không ghen tỵ gì cả với các anh chị em người Việt của chúng tôi, nhưng chúng tôi không muốn nhìn thấy những cựu chiến binh người Mỹ, và con cháu họ bị lãng quên’’

Đã từng là một người lính trẻ, 19 tuổi, phục vụ cho quân đội miền Nam Việt Nam, Trai cho biết ông đã từng ở trong rừng cả đêm lẫn ngày với tư cách là “một gián điệp”, thu thập toàn bộ thông tin tình báo về lực lượng của địch dọc đường mòn Hồ Chí Minh, gồm một loạt các đường mòn đi bộ được sử dụng bởi các binh sĩ miền Bắc Việt Nam để tiếp tế cho miền Nam.

Theo như VA (Veteran Affairs), Lực lượng quân đội Mỹ đã dội xuống khu vực này thuốc làm rụng lá nhằm phá hủy những cánh rừng nơi đã che chở cho quân đối phương và nhằm phá hủy mùa màng. Từ năm 1961 đến năm 1971, quân đội Mỹ đã thả xuống khoảng hơn 19 triệu gallon thuốc diệt cỏ xuống miền Nam Việt Nam và các khu vực biên giới giữa Lao và Campuchia.

Trong khi ông Trai bắt đầu công việc làm ở trong rừng sau khi phun chất hóa học khoảng 1 năm sau đó, ông thấy sự ảnh hưởng khác biệt ở những vùng nông thôn xung quanh. Nhưng lúc đó, không có một ai biết rằng chất độc màu Da cam có chứa chất dioxin gây ung thư và ông Trai nói rằng ông chưa từng nghĩ rằng có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của ông. Nhưng đã bốn thập kỷ nay kể từ khi chiến tranh kết thúc, quá khứ cứ đeo đẳng luôn bên ông.

Ông được chẩn đoán là bị ung thư hạch bạch huyết (không Hodgkin), là một loại ung thư một phần hệ thống miễn dịch. Nó là một trong hơn 12 loại bệnh mà cựu chiến binh người Mỹ được hưởng đền bù.

Một cựu chiến binh người Mỹ tại Việt nam, một trung sĩ trong lực lượng không quân Mỹ tại Việt Nam năm 1970 cũng là một trong những người được hưởng quyền lợi này.

Smith hiện đang sống tại Montery, California, đã từng làm việc trong chiến tranh tại căn cứ không quân cũ của Mỹ tại Biên Hòa, nơi được coi là “điểm nóng’’ của việc nhiễm Dioxin (chất độc màu Da cam)

Năm 2002 khi ông 52 tuổi, ông được chẩn đoán là mắc bệnh ung thư tiền liệt tuyến. Hội Cựu chiến binh Mỹ liệt ông vào tình trạng khuyết tật 100% và cho ông trợ cấp là 2.800 đô la Mỹ một tháng. Ông cũng được miễn phí tiền thăm khám bác sĩ và đơn thuốc. Smith nói “những người đồng đội gốc Việt của tôi nên được đối xử giống như tôi.’’ Ông là một người hoạt động rất nhiệt tình trong chương trình “Cựu Chiến Binh vì Hòa Bình” – một nhóm cựu chiến binh tiến bộ của quốc gia.

Với Trai, người đang phải vật lộn để trang trải cho cuộc sống của mình, thì những lợi ích này thực sự cần có để đem lại những thứ ông đang rất cần.

Hầu hết các chi phí y tế của Trãi đều được thanh toán bởi Medi–Cal, một chương trình bảo hiểm y tế của chính phủ dành cho người có thu nhập thấp. Hiện ông cũng không phải trả chi phí thuê nhà và các chi phí dành cho các hộ gia đình. Trai nói ông nộp đơn cho SSI, một chương trình của chính phủ chi trả các quyền lợi cho người khuyết tật nghèo khó. SSI nói với ông rằng bệnh tật của ông không phải là dạng khuyết tật dài hạn.

Những quyền lợi về khuyết tật dành cho các cựu chiến binh như Gordon Smith đang được hưởng là kết quả của việc đấu tranh gay gắt và lâu dài của các cựu chiến binh Mỹ yêu cầu Washington công nhận tác hại của chất độc Da cam.

Sau chiến tranh, hội cựu binh Mỹ lúc đầu phủ nhận việc thuốc diệt cỏ liên quan đến các căn bệnh ung thư, dị tật bẩm sinh của con cái những cựu chiến binh, và một loạt bệnh tật khác nữa, mặc dù có hàng loạt dẫn chứng về những ảnh hưởng chết người của chất Dioxin. Các luật sư của Chương trình dịch vụ pháp luật quốc gia dành cho các cựu chiến binh (NVLSP) đã kiện VA (Veteran Affairs) vào năm 1986 và khi đã chỉ ra rằng một loại bệnh liên quan đến việc nhiễm độc chất diệt cỏ thì đã thỏa thuận một nghị định yêu cầu VA đền bù cho các cựu chiến binh, những người trước kia bị từ chối đền bù, khi mắc những bệnh này.

Cũng tại thời điểm đó, năm 1991, Tổng thống George H.W. Bush đã ký một đạo luật tạo ra một hệ thống quy định rằng khi nào thì một bệnh về khoa học liên quan đến việc nhiễm chất diệt cỏ.
chat_doc_da_cam_trai_3_resized

Ngày nay, VA công nhận rằng hơn một chục bênh ung thư và các bệnh khác là hậu quả của thuốc diệt cỏ thời chiến tranh, bao gồm bệnh ung thư sarcoma mô mềm, ung thư hạch bạch huyết không Hodgkin, bệnh bạch cầu lymphocytic mãn tính, bệnh ung thư hạch bạch cầu loại Hodgkin, bệnh ung thư về hệ thống hô hấp, ung thư tiền liệt tuyến, bệnh Parkinson, cao huyết áp, bệnh tim thiếu máu cục bộ, bệnh tiểu đường tuýp 2 và tật nứt đốt sống ở con cái của người bị phơi nhiễm.

Tất cả những điều mà một cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam cần chứng tỏ giả định anh ta bị nhiễm chất độc màu Da cam là anh ta đã đặt chân lên vùng đất của Việt Nam trong một thời gian nào đó hoặc anh ta phục vụ trên các tuyến đường thủy nội địa của Việt Nam” Giám đốc điều hành NVLSP - Bart Stichman kể lại trong một email.

Không còn tranh cãi gì cả về việc chất độc màu Da cam và các hóa chất khác tương tự đã được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam trong những năm chiến tranh.

Một nghiên cứu năm 2003 được in trong tạp chí Nature do giáo sư Đại học Columbia Jeanne và Steven Stellman dự đoán rằng có khoảng 4,8 triệu công dân Việt Nam đã tiếp xúc với thuốc diệt cỏ.

Theo như số liệu nhập cư của Liên Bang, hơn 739,000 người Việt Nam đã nhập cư vào Hoa Kỳ từ năm 1971 – 2000. Mặc dù rất khó xác định, nhưng hàng chục đến hàng trăm ngàn người nhập cư Việt Nam tại Hoa Kỳ có thể đã tiếp xúc với thuốc diệt cỏ.

Đối với cựu chiến binh Mỹ, có những nghiên cứu chuyên sâu về mối liên quan giữa việc tiếp xúc với thuốc diệt cỏ và tỷ lệ cao của một số bệnh ung thư nhất định. Nhưng không có nghiên cứu nào tương tự được thực hiện cho người Mỹ gốc Việt cả, nhưng việc phân tích các số liệu về căn bênh ung thư cho người Việt Nam nhập cư thể hiện những xu hướng đáng báo động.

Nhà bệnh học về ung thư Scarlett Lin Gomez tại Viện phòng chống ung thư của California (CPIC) đã sử dụng các dữ liệu đăng ký về bệnh ung thư trên toàn tiểu bang California để so sánh tỷ lệ nhiễm bệnh của 14 loại bệnh ung thư phổ biến đối với sáu nhóm người châu Á và người da trắng.

Trong khi người da trắng có tỷ lệ cao nhất, thì một phân tích số liệu nghiên cứu được thực hiện bởi New American Media cho thấy so với các cộng đồng người châu Á khác, người Mỹ gốc Việt tại California đang phải chịu tỷ lệ lớn hơn về các tình trạng sau đây liên quan đến việc phơi nhiễm chất độc da cam:

Đàn ông người Việt có tỷ lệ bị các bệnh ung thư cao nhất (các trường hợp được thống kê trong năm 2000 và tuổi điều chỉnh theo điều tra dân số năm 2000), hàng năm khoảng 375 ca mới nữa trên khoảng 100.000 dân. Với so sánh tương tự thi đối với đàn ông Trung Quốc, con số này chỉ là 335 thôi.

Phụ nữ người Việt mắc bệnh ung thư hạch bạch huyết không Hodgkin cao nhất và có tỷ lệ tử vong về căn bệnh ung thư này cao nhất.

Đàn ông người Việt mắc bệnh Sarcoma mô mềm cao nhất, một loại ung thư phát triển trong mỡ, cơ, hệ thần kinh hay các mạch máu.

Đàn ông và phụ nữ Việt Nam có tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cao vì bệnh ung thư phổi. (hết trích từ: www.newamericamedia.org)

Bài trên là trích từ nghiên cứu của Ngọc Nguyễn -- một phóng viên của New America Media, một dịch vụ tin tức phi lợi nhuận. Nghiên cứu trong câu chuyện này được tài trợ của Quỹ Báo Chí Điều Tra (Investigative Journalism).

Toàn văn bản tin ở trang: www.newamericamedia.org

Photo credit: Patrick Tehan/Bay Area News Group.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Trong bối cảnh thế giới đang trải qua những biến động nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và công nghệ, toàn cầu hoá – vốn từng được xem là động lực chính thúc đẩy cho tăng trưởng và thịnh vượng – đang đứng trước những thách thức chưa từng có. Tiến trình công nghiệp hoá và toàn cầu hoá đã đem lại nhiều thành tựu vượt bậc trong suốt thời gian dài qua, từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, đặc biệt là thông qua sự chuyên môn hoá, tự do thương mại và tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, các cuộc khủng hoảng tài chính, đại dịch toàn cầu, chiến tranh và cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc đã khiến mô hình toàn cầu hoá truyền thống bộc lộ nhiều tình trạng bất ổn...
Nhiều thế hệ sống ở Sài Gòn những năm của thập niên 80-90, khi con gà trống của Thương Xá Tax chưa bị bức tử, khi những hàng cây cổ thụ trên đường Tôn Đức Thắng vẫn là nét thơ mộng của Sài Gòn, có lẽ đều quen thuộc với câu “Chương Trình Truyền Hình Đến Đây Là Hết…” Nó thường xuất hiện vào cuối các chương trình tivi tối, khi chưa phát sóng 24/24. Thời đó, mỗi ngày truyền hình chỉ phát sóng trong một số khung giờ nhất định (thường từ chiều đến khuya) nên hầu như ai cũng có tâm lý chờ đợi đến giờ ngồi trước màn ảnh nhỏ, theo dõi vài giờ giải trí. Đó cũng là chút thời gian quên đi một ngày cơ cực, bán mồ hôi cho một bữa cơm độn bo bo thời bao cấp. Nhắc nhớ chút chuyện xưa, để nói chuyện nay, đang diễn ra ở một đất nước văn minh hàng đầu, từng là niềm mơ ước của biết bao quốc gia về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận.
Trên mạng gần đây lan truyền một bức tranh chuỗi tiến hóa ngược nhại kiểu Banksy - vẽ hình ảnh tiến hóa quen thuộc từ khỉ tiến tới người, nhưng đến giữa chặng đường, một gương mặt ai cũng nhận ra quay lưng đi ngược lại về phía khỉ. Cái dáng ngoảnh đầu ấy khiến tôi chạnh lòng nghĩ đến hình ảnh nước Mỹ hôm nay. Giữa thế kỷ XXI, lẽ ra phải tiếp tục đi tới, nhưng thay vì mở rộng tự do học thuật – ngọn nguồn của sáng tạo – chúng ta lại thấy những dấu hiệu nước Mỹ thoái lui theo một quỹ đạo lạ lùng: thử nghiệm một kiểu “tiến hóa ngược”.
Từ khi Tối Cao Pháp Viện lật đổ Roe v. Wade, chúng ta đều biết câu chuyện không dừng lại ở đó. “Để tiểu bang tự quyết” chỉ là cái cớ. Và Texas, tiểu bang bảo thủ dẫn đầu, vừa chứng minh điều đó bằng một luật mới: trao cho bất kỳ ai quyền săn lùng và kiện những người dính dáng tới thuốc phá thai. Texas vốn đã có một trong những lệnh cấm khắc nghiệt nhất: phá thai bị cấm hoàn toàn, trừ vài ca y tế khẩn cấp. Không ngoại lệ cho thai dị tật chết non. Không ngoại lệ cho hiếp dâm. Không ngoại lệ cho loạn luân. Thế nên, nhiều phụ nữ Texas chỉ còn con đường tìm đến thuốc phá thai qua mạng, thường từ những nhà cung cấp ở ngoài tiểu bang. Luật mới nhắm thẳng vào cánh cửa mong manh ấy.
Suốt 250 năm, người Mỹ đồng ý rằng cai trị bởi một người duy nhất là sai lầm, rằng chính quyền liên bang vốn cồng kềnh, kém hiệu quả. Lẽ ra hai điều ấy đủ để ngăn một cá nhân cai trị bằng mệnh lệnh từ Bạch Ốc. Nhưng Trump đang làm đúng điều đó: đưa quân vào thành phố, áp thuế quan, can thiệp vào ngân hàng trung ương, chen vào quyền sở hữu công ty, gieo nỗi sợ để buộc dân chúng cúi đầu. Quyền lực bao trùm, nhưng không được lòng dân. Tỉ lệ chấp thuận của ông âm 14 điểm, chỉ nhỉnh hơn chút so với Joe Biden sau cuộc tranh luận thảm hại năm ngoái. Khi ấy chẳng ai lo ông Biden “quá mạnh”. Vậy tại sao Trump, dù bị đa số phản đối, vẫn dễ dàng thắng thế?
Có bao giờ bạn nói một điều rõ ràng như ban ngày, rồi nghe người khác nhắc lại với nghĩa hoàn toàn khác? Bạn viết xuống một hàng chữ, tin rằng ý mình còn nguyên, thế mà khi quay lại, nó biến thành điều bạn chưa từng nghĩ đến – kiểu như soi gương mà thấy bóng mình méo mó, không phải bị hiểu lầm, mà bị người ta cố ý dựng chuyện. Chữ nghĩa, rơi vào tay kẻ cố ý xuyên tạc, chẳng khác gì tấm gương vỡ. Mỗi mảnh gương phản chiếu một phần, nhưng người ta vẫn đem mảnh vỡ đó làm bằng chứng cho toàn bộ bức tranh. Một câu, một đoạn, một khẩu hiệu – xé khỏi bối cảnh trở nên lệch lạc – hóa thành thứ vũ khí đâm ngược lại chính ý nghĩa ban đầu. Câu chuyện của đạo diễn Trấn Thành gần đây là một minh họa. Anh chỉ viết đôi dòng thương tiếc chia buồn với sự ra đi của nghệ sĩ đàn bầu Phạm Đức Thành. Vậy thôi. Thế mà lập tức bị chụp mũ, bêu riếu, bị gọi “3 que,” “khát nước,” “Cali con.” Người ta diễn giải đủ kiểu, vẽ ra đủ cáo buộc: từ tội mê văn hóa Việt Nam Cộng Hòa đến tội phản quốc.
Sau thất bại trước đối thủ đảng Dân Chủ Joe Biden trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020, nội các “gia đình trị” của Donald Trump gần như biến mất khỏi chính trường. Các đồng minh không thể có cùng tiếng nói với Trump, nhất là sau vụ bạo loạn Quốc Hội Jan 06. Duy nhất một người vẫn một lòng trung thành không bỏ rơi Trump, đó chính là Stephen Miller. Nhiệm kỳ hai của Trump, người được cho là có quyền lực hơn trong vòng tròn thân cận của Trump, hơn cả JD Vance, chẳng ai khác hơn chính là Stephen Miller. Để tạo ra những ảnh hưởng chính trong chính quyền Trump hôm nay, Miller đã có một đường dài chuẩn bị, khôn ngoan và nhẫn nại.
Đầu tháng 8 năm 2025, Tổng thống Donald Trump đã ký một mệnh lệnh đặc biệt, chỉ đạo các cơ quan hữu trách lập kế hoạch đưa quân đội Hoa Kỳ đi trấn áp các tổ chức tội phạm ở Mỹ Latinh. Khoảng hai tuần sau, mệnh lệnh đã thành hiện thực. Ba khu trục hạm có gắn phi đạn viễn khiển (guided-missile destroyers) của Hoa Kỳ đã được khai triển tới vùng biển Venezuela, đảm trách việc chặn giữ các chuyến hàng ma túy.
Một góc khuôn viên của Đồi Capitol sáng Thứ Tư là những câu chuyện tưởng đã bị chôn vùi, nay được kể ra trong sự run rẩy, xúc động và cả nước mắt. Trước hàng chục ống kính truyền thông chiếu trực tiếp trên toàn quốc, khoảng mười người phụ nữ lần lượt kể ra câu chuyện của chính mình – nạn nhân của Jeffrey Epstein, tỷ phú tội phạm tình dục và buôn bán mại dâm trẻ vị thành niên. Ngày đó, những phụ nữ này chỉ vừa 16, 18 tuổi, nhỏ nhất là Marina Lacerda, 14 tuổi.
Ở đời, chẳng có ngai vàng nào là miễn phí. Muốn hỏi cưới công chúa thì phải có sính lễ. Làm gì có chuyện đi tay không mà cuỗm được gái đẹp — trừ trường hợp dùng quyền lực bẩn thỉu cưỡng hiếp gái tơ (nghe quen quen). Muốn làm đàng anh đàng chị không thể vừa keo kiệt vừa đòi được người ta kính nể. Quy luật xưa nay không đổi ăn khế thì phải trả vàng. Ngai vàng toàn cầu cũng vậy -- không chỉ làm bằng vàng, mà còn bằng chi phí, lời hứa, và trên hết, là sự tín nhiệm.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.