Lời giới thiệu:
Dành một chút thời giờ, thử tìm hiểu ý nghĩa của 2 câu thơ nghe rất quen thuộc sau đây (như trích trong 'tuyệt tác') "Truyện Kiều" của văn hào Nguyễn Du:
"Này con thuộc lấy làm lòng
Vành ngoài BẢY CHỮ, vành trong TÁM NGHỀ"
(Truyện Kiều - Câu thứ 1209 và 1210 v/v Tú Bà dạy Kiều nghề chơi)
* Xin đặc biệt lưu ý.
Đây là chuyện văn chương người lớn. Loại chuyện cấm trẻ em dưới 18 tuổi. Nếu quý vị thấy nội dung không thích hợp thì xin dừng ngay ở đây, không nên đọc những dòng kế tiếp.
Đa tạ.
TVG
Tưởng chuyện đại sự, to lớn… Ai dè đây là những mánh khoé của gái làng chơi, các chị em ta, cư xử với khách, từ bề ngoài cũng như trong lúc hành lạc. Thiệt tình!!!
Theo truyện "Kim Vân Kiều" của Thanh Tâm Tài Nhân (bên Tàu) thì "Bảy Chữ" lần lượt là:
1. Khấp: tức là khóc giả bộ thương yêu, quyến luyến làm khách không muốn rời.
2. Tiện: cắt một ít tóc của mình và một ít tóc của khách; trộn chung lại rồi chia hai; mỗi người buộc vào cánh tay để tỏ ý muốn kết tóc se tơ (duyên).
3. Thích: dùng mực xạ xâm tên người khách vào bắp tay hoặc bắp đùi mình để khách trông thấy cho là mình chung tình.
4. Thiêu: đốt hương (nhang) giả bộ thề nguyền rồi chích hương nóng vào tay mình và tay khách để tỏ dạ chung tình. Có sáu vị trí được đề nghị để thiêu:
a)- Bụng kề bụng gọi là "chính nguyện đồng tâm."
b)- Đầu chụm đầu gọi là "chính nguyện kết tóc."
c)- Tay tả mình khít với tay tả khách gọi là "hứa nguyện liên tình bên tả."
d)- Tay hữu mình liền với tay hữu khách gọi là "hứa nguyện liên tình bên hữu."
e)- Đùi tả mình khít với đùi hữu khách gọi là "hứa nguyện giao đùi bên tả."
f)- Đùi hữu mình khít với đùi tả khách gọi là "hứa nguyện giao đùi bên hữu."
5. Giá: hứa lấy khách làm chồng, giả đò thề hẹn, bàn cách lấy nhau (như thật).
6. Tẩu: rủ khách cùng đi trốn. Khi khách chơi đã hết tiền nhưng còn quyến luyến mình không nỡ rời, phải giả cách rủ khách cùng đi trốn; đó là một cách "tống cổ" khách êm thắm (khách không có tiền đâu dám đi trốn… Đi trốn thì chỉ có ăn mày!).
7. Tử: đòi chết để tỏ ra chung tình với khách.
"Bảy Chữ" trên ghi đây chỉ là mánh khoé mà các em nhà nghề (của cái nghề cũ nhất trên hành tinh) cư xử bên ngoài.
Còn "Tám Nghề" là cách hành lạc (performance, bên trong / trên giường) như sau:
- Đối với người có "súng"... bé, súng ngắn (nòng) thì dùng phép "đánh trống giục hoa."
- Đối với người có "súng"... to (thuộc loại top gun! Tảng thần!) súng dài thì dùng phép "sen vàng khóa xiết."
- Đối với người tính nhanh (high frequency, nhịp giã gạo cứ như trống dồn) thì dùng phép "mở cờ đánh trống."
- Đối với người tính khoan (nhịp giã chầm chậm, khoan thai nhát một) thì dùng phép "đánh chậm gõ sẽ."
- Đối với người mới "vỡ lòng" (loại súng mới ra lò được bắn thử lần đầu, súng mới mở mắt) thì dùng phép "ba bậc đổi thế."
- Đối với người không dai sức (hết tiền trước khi vào chợ!) thì dùng phép "đỡ dần buộc chặt."
- Đối với người dai sức (đã hết kẻng 2-3 lần rồi mà vẫn còn tà tà làm "overtime" y như quảng cáo bán pin "Energizer" - It goes on and on and on…) thì dùng phép "gắn bó truy hồn."
- Đối với người mê sắc (có phải là mê mẩn sắc dục?!) thì dùng phép "dềnh dàng cướp vía."
Riêng chuyện "cái ngàn vàng thiệt" và "ngàn vàng giả" qua 2 câu:
"Nước vỏ lựu, máu mào gà
Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên"
(Truyện Kiếu - Câu thứ 836 và 837 v/v Tú Bà dạy Kiều nghề chơi theo kiểu "đánh lận con đen")
Thì xin mời quý vị vui lòng đọc thêm để rõ hơn qua cái "link" ngay bên dưới đây:
http://ykhoa.net/tinhduc_gioitinh/tinhduc/87-12.htm
Lời kết:
Như vậy câu hỏi được TVG đặt ra là:
" 'Truyện Kiều' của ta có phải là 'dâm thư' hay không?"
Nếu câu trả lời là "Yah! Cha nội còn phải hỏi! " thì bố già Phạm Quỳnh kể ra cũng đã đi hơi quá đà khi ông đọc "Bài diễn thuyết về Truyện Kiều" nhân lễ kỷ niệm ngày giỗ Nguyễn Du vào ngày 8 tháng 12 năm 1924, tức ngày mồng 10 tháng 8 năm Giáp Tý do Hội Khai Trí Tiến Đức của ông tổ chức. Bài được đăng lại trên Tạp chí Nam Phong số 86. Trong đoạn kết của bài này, ông nói một câu "bất hủ" (và còn gây tranh luận cho đến ngày nay!) là:
"Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn…"
Mà thiệt hôn nè??? Tiếng ta và cả Nước ta đã có và còn từ lâu, từ khuya rồi trước khi "Truyện Kiều" được Nguyễn Du sao chép dịch sang tiếng Nôm từ chú Ba Thanh Tâm Tài Nhân (bên Tàu) cơ mà?! Tại sao phải chờ mãi đến năm 1924 thì ông Phạm Quỳnh mới nhắc tuồng rất trái quẻ Tam Tông Miếu như vậy?
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là! … Đây chỉ là một vài câu chuyện nhỏ thô thiển, đậm tính "dung tục…" Một loại văn chương bình dân giáo dục nước ta. Nếu nghe không dzô, xin quý vị thức giả… thật (không phải thức giả giả !) tiện tay xóa dùm làm phước.
Trần Văn Giang (ghi lại)
Orange County
(Ngày 10/10/2013)
Dành một chút thời giờ, thử tìm hiểu ý nghĩa của 2 câu thơ nghe rất quen thuộc sau đây (như trích trong 'tuyệt tác') "Truyện Kiều" của văn hào Nguyễn Du:
"Này con thuộc lấy làm lòng
Vành ngoài BẢY CHỮ, vành trong TÁM NGHỀ"
(Truyện Kiều - Câu thứ 1209 và 1210 v/v Tú Bà dạy Kiều nghề chơi)
* Xin đặc biệt lưu ý.
Đây là chuyện văn chương người lớn. Loại chuyện cấm trẻ em dưới 18 tuổi. Nếu quý vị thấy nội dung không thích hợp thì xin dừng ngay ở đây, không nên đọc những dòng kế tiếp.
Đa tạ.
TVG
*
Tưởng chuyện đại sự, to lớn… Ai dè đây là những mánh khoé của gái làng chơi, các chị em ta, cư xử với khách, từ bề ngoài cũng như trong lúc hành lạc. Thiệt tình!!!
Theo truyện "Kim Vân Kiều" của Thanh Tâm Tài Nhân (bên Tàu) thì "Bảy Chữ" lần lượt là:
1. Khấp: tức là khóc giả bộ thương yêu, quyến luyến làm khách không muốn rời.
2. Tiện: cắt một ít tóc của mình và một ít tóc của khách; trộn chung lại rồi chia hai; mỗi người buộc vào cánh tay để tỏ ý muốn kết tóc se tơ (duyên).
3. Thích: dùng mực xạ xâm tên người khách vào bắp tay hoặc bắp đùi mình để khách trông thấy cho là mình chung tình.
4. Thiêu: đốt hương (nhang) giả bộ thề nguyền rồi chích hương nóng vào tay mình và tay khách để tỏ dạ chung tình. Có sáu vị trí được đề nghị để thiêu:
a)- Bụng kề bụng gọi là "chính nguyện đồng tâm."
b)- Đầu chụm đầu gọi là "chính nguyện kết tóc."
c)- Tay tả mình khít với tay tả khách gọi là "hứa nguyện liên tình bên tả."
d)- Tay hữu mình liền với tay hữu khách gọi là "hứa nguyện liên tình bên hữu."
e)- Đùi tả mình khít với đùi hữu khách gọi là "hứa nguyện giao đùi bên tả."
f)- Đùi hữu mình khít với đùi tả khách gọi là "hứa nguyện giao đùi bên hữu."
5. Giá: hứa lấy khách làm chồng, giả đò thề hẹn, bàn cách lấy nhau (như thật).
6. Tẩu: rủ khách cùng đi trốn. Khi khách chơi đã hết tiền nhưng còn quyến luyến mình không nỡ rời, phải giả cách rủ khách cùng đi trốn; đó là một cách "tống cổ" khách êm thắm (khách không có tiền đâu dám đi trốn… Đi trốn thì chỉ có ăn mày!).
7. Tử: đòi chết để tỏ ra chung tình với khách.
"Bảy Chữ" trên ghi đây chỉ là mánh khoé mà các em nhà nghề (của cái nghề cũ nhất trên hành tinh) cư xử bên ngoài.
Còn "Tám Nghề" là cách hành lạc (performance, bên trong / trên giường) như sau:
- Đối với người có "súng"... bé, súng ngắn (nòng) thì dùng phép "đánh trống giục hoa."
- Đối với người có "súng"... to (thuộc loại top gun! Tảng thần!) súng dài thì dùng phép "sen vàng khóa xiết."
- Đối với người tính nhanh (high frequency, nhịp giã gạo cứ như trống dồn) thì dùng phép "mở cờ đánh trống."
- Đối với người tính khoan (nhịp giã chầm chậm, khoan thai nhát một) thì dùng phép "đánh chậm gõ sẽ."
- Đối với người mới "vỡ lòng" (loại súng mới ra lò được bắn thử lần đầu, súng mới mở mắt) thì dùng phép "ba bậc đổi thế."
- Đối với người không dai sức (hết tiền trước khi vào chợ!) thì dùng phép "đỡ dần buộc chặt."
- Đối với người dai sức (đã hết kẻng 2-3 lần rồi mà vẫn còn tà tà làm "overtime" y như quảng cáo bán pin "Energizer" - It goes on and on and on…) thì dùng phép "gắn bó truy hồn."
- Đối với người mê sắc (có phải là mê mẩn sắc dục?!) thì dùng phép "dềnh dàng cướp vía."
Riêng chuyện "cái ngàn vàng thiệt" và "ngàn vàng giả" qua 2 câu:
"Nước vỏ lựu, máu mào gà
Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên"
(Truyện Kiếu - Câu thứ 836 và 837 v/v Tú Bà dạy Kiều nghề chơi theo kiểu "đánh lận con đen")
Thì xin mời quý vị vui lòng đọc thêm để rõ hơn qua cái "link" ngay bên dưới đây:
http://ykhoa.net/tinhduc_gioitinh/tinhduc/87-12.htm
Lời kết:
Như vậy câu hỏi được TVG đặt ra là:
" 'Truyện Kiều' của ta có phải là 'dâm thư' hay không?"
Nếu câu trả lời là "Yah! Cha nội còn phải hỏi! " thì bố già Phạm Quỳnh kể ra cũng đã đi hơi quá đà khi ông đọc "Bài diễn thuyết về Truyện Kiều" nhân lễ kỷ niệm ngày giỗ Nguyễn Du vào ngày 8 tháng 12 năm 1924, tức ngày mồng 10 tháng 8 năm Giáp Tý do Hội Khai Trí Tiến Đức của ông tổ chức. Bài được đăng lại trên Tạp chí Nam Phong số 86. Trong đoạn kết của bài này, ông nói một câu "bất hủ" (và còn gây tranh luận cho đến ngày nay!) là:
"Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn…"
Mà thiệt hôn nè??? Tiếng ta và cả Nước ta đã có và còn từ lâu, từ khuya rồi trước khi "Truyện Kiều" được Nguyễn Du sao chép dịch sang tiếng Nôm từ chú Ba Thanh Tâm Tài Nhân (bên Tàu) cơ mà?! Tại sao phải chờ mãi đến năm 1924 thì ông Phạm Quỳnh mới nhắc tuồng rất trái quẻ Tam Tông Miếu như vậy?
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là! … Đây chỉ là một vài câu chuyện nhỏ thô thiển, đậm tính "dung tục…" Một loại văn chương bình dân giáo dục nước ta. Nếu nghe không dzô, xin quý vị thức giả… thật (không phải thức giả giả !) tiện tay xóa dùm làm phước.
Trần Văn Giang (ghi lại)
Orange County
(Ngày 10/10/2013)
Ông Trần Văn Giang rỏ ràng khì khọt khi kêu ông Phạm Quỳnh là bố già và ranh mãnh móc nghéo xò xiêng Phạm Quỳnh "đã đi hơi quá đà khi ông nói một câu "bất hủ" là "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn…"
Có thể ông Trần Văn Giang không thiện cảm với Truyện Kiều. Nhưng tin chắc rằng ông Phạm Quỳn không sai . Vì rỏ ràng chỉ với hai câu thơ trong Truyện Kiều, nhưng ông Trần Văn Giang đã phải diển giài tràng giang đại hài ý nghĩa hai câu sau trong bài viết này .
"Này con thuộc lấy làm lòng
Vành ngoài BẢY CHỮ, vành trong TÁM NGHỀ"
Xét thế thì Truyện Kiều thâm thuý mức nào . Hy vọng lần sau ông Trần Văn Giang bớt rắn mắc .
Thành thật cảm tạ ông Trần Văn Giang đã bò công cho thấy "sự đâm đà" trong tiếng Việt .
Tiêu Hà