Hôm nay,  

Trường Hợp JFK

23/11/201300:00:00(Xem: 9339)
Ngày 22 tháng 11 năm 2013 là ngày đánh dấu lễ truy niệm cố Tổng Thống Hoa Kỳ JFK bị hạ sát tại Dallas-Texas đúng cách đây 50 năm. Lúc ấy Kennedy chỉ có 46 tuổi và người đã hạ sát ông là Lee Harvey Oswald, một cựu quân nhân bất mãn thuộc thủy quân lục chiến Mỹ, đã từng đào ngũ sang Liên Xô… JFK có quá khứ dằng co chống lại bệnh tật, đau yếu, tuy nhiên khi lên làm Tổng Thống ông đã tự tỏ ra là một gương mặt trẻ đầy sức sống, theo đuổi những lý tưởng cao quí, ông vô cùng xông xáo trên mọi địa hạt và ông bị sát hại. Do vậy ông được thế giới mến mộ và nhân dân Hoa kỳ sùng kính.

Cái chết oan uổng của Cố Tổng thống John F. Kennedy trở thành một thảm họa cho đất nước Hoa Kỳ. Người dân Mỹ đã vô cùng thương tiếc ông. Những cảm xúc trân quí của quần chúng Mỹ đối với cố Tổng thống Kennedy vào thời điểm đó đã vô tình nâng cao vị thế của ông trong dòng lịch sử ngang tầm với các tổng thống tài ba đạo đức hàng đầu của Hợp Chủng Quốc như George Washington, Abraham Lincoln. Mặt khác, đánh giá một nhà lãnh đạo, một vị tổng thống quan trọng như cố Tổng thống Kennedy mà chỉ dựa vào những xúc động xã hội, những thiện cảm sẵn có trong lòng người, khó có thể tránh được những phiến diện, thiếu chiều sâu, không công bằng với lịch sử…Do vậy, theo GS Joseph S.Nye, có những sử gia Mỹ cùng thời ấy và sau này đã đánh giá đúng mức vị trí khiêm tốn của Kennedy trong dòng lịch sử của Hoa Kỳ. Song song với những cảm xúc xã hội và thiện cảm của thời đại trước cái chết oan uổng của Kennedy, các sử gia cũng không quên quan tâm đến:

- Những bê bối về quan hệ tình dục của Kennedy (nhất là trong quan hệ tình dục với siêu sao điện ảnh Marilyn Monroe, một hiện thân tình dục cỡ lớn-A major Sex Symbol)

- khả năng xây dựng cơ chế lâp pháp của ông không được sáng lạn, nếu không muốn nói là hụt hẵn khi ông là thành viên của Thượng viện Hoa Kỳ (scant Legislative record)

- Ông không thực hiện được những gì ông đã hứa, ông đã mơ ước cho lịch sử Mỹ, GS Joseph S Nye gọi là: “his failure to match words with deeds”. JFK nói rất nhiều về Dân quyền, Giảm Thuế, Xóa đói Giảm nghèo…Nhưng cho đến khi ông chết, ông vẫn chưa có kế hoạch thực hiện, vẫn còn chỉ là những dự luật… Người thừa kế ông, Lyndon Johson, coi đây như là những di sản của ông để lại và Lyndon Johnson đã khéo léo dựa vào “cái chết vì lý tượng cao đẹp” của Kennedy, và tài lãnh đạo của riêng mình, Johnson đã thông qua lưỡng viện Quốc Hội Hoa kỳ những dự luật trên và biến thành những bộ luật thật sự.

Năm 2009 theo thống kê của một sử gia Hoa Kỳ chuyên về các đời Tổng Thống Mỹ đã sắp Kennedy vào hàng ngũ của 6 vị tổng thống quan trọng hàng đầu của Hoa Kỳ. Trong khi đó một thống kê mới nhất do những nhà khảo cứu của Vương Quốc Anh đã sắp Kennedy vào vị thế thứ 15 trong hàng ngũ của các Tổng thống Hoa Kỳ. Phải nói đây là một sự định vị rất ấn tượng cho một vị Tổng thống đã ngồi tại Nhà Trắng chưa đầy 3 năm, tròn trèm 1000 ngày. Liệu những gì ông ta đã làm cho nước Mỹ, và lịch sử Mỹ có gì khác lạ không, nếu ông ta thoát chết và còn sống sau tai nạn 22-11-1963 tại Dallas?

Cố Tổng thống Kennedy đã từng kêu gọi sự hy sinh của mọi giới công dân Mỹ, trong bài diễn văn nhậm chức Tổng thống Hoa Kỳ, JFK kêu gọi: “Đừng hỏi tổ quốc làm gì cho các bạn- mà phải tự hỏi các bạn đã làm gì cho tổ quốc. “. JFK là người thành lập Peace Corps. Chính JFK đã đặt viên đá đầu tiên cho dự án NASA đưa người Mỹ lên mặt trăng và những năm cuối thập kỷ 1960s. Ông cũng là người đề xuất tư tưởng Biên Cương Mới- New Frontier- mà hiệp hội tiến bộ với Châu Mỹ Latin- Alliance For Progress With Latin America- là một mặt của đề xuất này. Bên cạnh đó JFK đã can thiệp hữu hiệu vào những vấn đề da màu tại các đại học miền Nam nước Mỹ, xóa bỏ các lề đường dành riêng cho White và Non White. JFK đã giản hòa được mối xung đột giữa Hoa kỳ với châu u. Châu âu dưới triều đại của Kennedy đã nhìn Hoa Kỳ với đôi mắt nhiều thiện cảm hơn…JFK là nguồn cảm hứng cho nhiều người….

Qua những lời kêu gọi hy sinh, thành lập những Hiệp Hôi, Đoàn thể, xóa bỏ kỳ thị màu da …vừa kể ở trên của cố Tổng thống JFK các sử gia Mỹ vẫn thấy ông chưa hẳn là một nhà lãnh đạo có tư tưởng cách mạng, đưa ra những đề xuất có tính cách bức phá đưa nước Mỹ tiến đến một cấp độ cao hơn như nước Mỹ hiện tại dưới mắt ông. Những điều ông làm, những lời kêu gọi của ông có tính cách rất chừng mực, cẩn trọng, thể hiện đúng bản chất của một vị Tổng thống chú trong vào phát triển xã hội, đất nước, theo lối mòn cũ xưa hơn là mang tính cách đột phát, bức phá…phát triển đất nước và con người theo tư duy độc đáo của mình.


Ở đây có điều đáng ghi nhớ về cố Tổng thồng JFK là ông đã xử trí thích đáng sự cố: Sô Viết mang Hỏa tiển mang đầu đạn nguyên tử vào Cuba. Nền an ninh của Mỹ bị hâm dọa nghiêm trọng. Ông đã xử trí việc này với tư duy độc lập của ông dưới sức ép hiếu chiến từ phía các phe phái và Tướng lãnh diều hâu. Ông đã học những bài học quí giá từ những thất bại của chiến dịch Bay of Pigs Invasion và cuộc hành quân Operation Mongoose sau đó. Cố tổng thống JFK, giữ vững lập trường đàm phán vừa hoà hoãn vừa cứng rắn và ông đã thành công thuyết phục lãnh tụ Sô viết đương thời, Nikata Krutchev, một tên thô bạo từng cỗi giầy đập trên bàn tại Đại hội đồng thường niên Liên Hiệp Quốc. Phó Tổng Lyndon Johson lúc đó là một siệu diều hâu- Ultra Hawkish- đã phải lên tiếng: Vào thời điểm ấy nếu JFK không là Tổng thống Hoa Kỳ thì tình hình có lẽ tồi tệ và nghiêm trọng hơn nhiều.

Đối với nhiều người Việt Nam hiện tại, trong nước cũng như ở hải ngoại, có câu hỏi lớn về cái chết của cố Tổng thống JFK trong suốt 50 năm qua vẫn chưa được trả lời một cách thích đáng: Liệu việc hạ sát cố tổng thống JFK tại Dallas vào ngày 22-11-1963 có liên quan gì đến chính sách của chính phủ Kennedy tại miền Nam ViệtNam? Có điều chắc chắn khi JFK vừa lên nhậm chức Tổng thống năm 1961, vào lúc ấy lực lượng quân sự của Mỹ tại miền Nam ViệtNam chỉ có vài trăm quân. Nhưng sau đó, chính JFK đã tăng số quân này lên đến 15,000 người. Sau khi ông bị sát hại tại Dallas-1963, người thừa kế của ông, Tổng thống Lyndon Johnson đã tăng quân số Mỹ tại miền Nam ViệtNam lên đến hơn 500,000. Theo GS Joseph S. Nye, một số người ủng hộ Kennedy vào thời kỳ ấy đã nói rằng cố Tổng thống Kennedy không mắc phải những sai lầm tăng quân số Mỹ như thế, nhưng chính họ lại xác nhận rằng chính Tổng thống Kennedy đã đứng sau vụ đảo chánh chính phủ Sàigon vào ngày 1 tháng 11-1963 đã đưa đến sự sát hại cố Tổng Thống miền Nam ViệtNam Ông Ngô Đình Diệm cùng bào đệ của ông, cố vấn Ngô Đình Nhu, vào ngày 2-tháng 11-1963. Hai mươi ngày sau đó, chính JFK cũng bị Lee Harvey Oswald hạ sát tại Dallas, Texas vào ngày 22-11-1963. Liền sau đó, Lyndon Johnson, đồng lõa với một số cố vấn quân sự Mỹ, (những viên cố vấn này chống lại chủ trương rút quân đội Mỹ ra khỏi Miền Nam ViệtNam) cố tình quấy nhiễu làm cho tình trạng miền Nam VN tồi tệ hơn để cho họ có lý do đổ quân ào ạt vào miền Nam ViệtNam. Nhưng một số người nhiệt tình ủng hộ JFK như Arthur Schlesinger, Theodore Sorensen…cho hay là Tổng thống JFK có ý định rút quân đội Hoa Kỳ ra khỏi miền Nam Việt Nam ngay sau khi ông đắc cử nhiệm kỳ hai vào năm 1964. Chính nhà sử học Schlesinger và Theodore Sorensen đã xác nhận cố Tổng thống JFK đã nói trắng ra những điều đó với TNS Mike Mansfield. Nhưng tất cả đều nghi ngại liệu cố Tổng thống Kennedy có thật tâm khi nói như vậy không? Vì Kennedy thường công khai tuyên bố ông cố duy trì thường xuyên thế quân sự thương phong của Mỹ tại miền Nam ViệtNam. Do vậy, câu hỏi ở trên của người Việt chúng ta cũng như của một số người Mỹ chân chính như Josepoh S. Nye vẫn còn bỏ ngõ, biết đến bao giờ chúng ta mới có được câu trả lời thích đáng?

GS Joseph S Nye đã đi đến kết luận: Với ông, Kennedy chỉ là một vị Tổng Thống Tốt-Good-chứ không phải là vị Tổng thống vĩ đại- Great- của Hợp Chủng Quốc. Điều làm cho ông là một vị tổng thống tốt không chỉ ở vào việc ông gây cảm hứng cho nhiều người khác mà còn là việc ông đã xử sự thận trọng trong chính sách ngoại giao khá nhiêu khê của chính phủ Hoa Kỳ.

Còn đối với chúng ta, những người ViệtNam trong nước cũng như hải ngoại việc đánh giá cố Tổng thống Hoa Kỳ-JFK- còn tùy thuộc vào câu trả lời về mực độ can thiệp của chính tổng thống Kennedy trong vụ đảo chánh chính phủ Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 1-tháng 11-1963 đã dẫn đến việc sát hại cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ của ông, cố vấn Ngô Đình Nhu. Hy vọng quí vị đồng ý với tôi như thế…./.

Đào Như

BS Đào Trọng Thể

[email protected]

Oak park, Illinois, USA

Nov.22nd 2013

GHI CHÚ VỀ NGUỒN

Các dữ kiện, sử liệu của bài viết này đều dựa trên website sau đây:

JFK RECONSIDERED-

http://www.project-syndicate.org/commentary/joseph-s--nye-looks-at-the-real-john-f--kennedy

Joseph S Nye- Former assistant Secretary of Defense and Chairman of the US National Intelligence Council- Professor at Harvard University….

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.