Hôm nay,  

Ngộ Nhận Đến Bao Giờ?

07/01/201400:00:00(Xem: 6527)
Trong sinh hoạt đời thường của các hội hè đình đám hay trong quan hôn tang tế, trong các nghi lễ tôn giáo thuộc quyền chi phối của nhà nước, chúng ta thường nghe những câu đại loại như nhờ ơn bác, đảng...cám ơn chính quyền các cấp đã quan tâm, tạo điều cho chúng tôi... và trên các phương tiện truyền thông, trong hệ thống giáo dục của đảng, nhà nước chúng ta thường nghe đề cao sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình đánh thắng các đế quốc, thực dân cũ, mới Pháp, Nhật, Mỹ lừng danh thế giới, một đất nước nhiều anh hùng, ra ngõ là gặp anh hùng kiểu như Lê Văn Tám, Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn, Chị ba Dũng Sĩ quê ở Trà Vinh...

Thế những gì đảng chỉ đạo tuyên truyền trong hệ thống tổ chức của đảng và các sách giáo khoa giảng dạy trong các trường phổ thông các cấp lên tận đại học hậu đại học, họ luôn kể về công lao của ông Hồ Chí Minh, của đảng cộng sản trong cuộc đấu tranh đánh đuổi thực dân, đế quốc giành độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ cho nước Việt Nam, là đúng với sự thật lịch sử hay đảng đã ngụy tạo, tiếm danh sửa đổi lịch sử để cướp công lẫn lợi dụng lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam?

Để biết được sự thật chúng ta cần lật lại những trang sử cũ bên ngoài những quyển sách, tài liệu phục vụ cho công tác tuyên truyền giáo dục của đảng cộng sản. Đọc lại sử sách cũ chúng ta sẽ bắt gặp nhiều cá nhân, tổ chức tự phát do lòng yêu nước đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp có mặt từ rất lâu, trước khi đảng cộng sản ra đời, không do sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Những vị anh hùng dân tộc có thật đã truyền lửa đấu tranh đến toàn thể dân tộc Việt Nam của những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 gồm có:

Miền Nam có những tên tuổi tiêu biểu như ông Trương Công Định thể hiện tinh thần đấu tranh không khoan nhượng với câu nói để đời: “Chúng ta thề sẽ đánh mãi và đánh không ngừng, khi thiếu võ khí tất cả sẽ bẻ nhánh cây làm cờ, lấy gậy gộc làm võ khí cho quân lính ta...” và ông Nguyễn Trung Trực, người lãnh đạo đốt tàu giặc ở vàm Nhật Tảo, chiếm thành Rạch Giá bị giặc bắt vẫn tỏ khí phách “uy vũ bất năng khuất” ông bước lên đoạn đầu đài với yêu cầu giặc Pháp mở trói, không bịt mắt và ông hiên ngang bước ra giữa pháp trường, nhìn trời đất bao la, vẫy tay chào đồng bào để đi vào lòng đất mẹ lúc tuổi đời còn rất trẻ.

Miền trung có những lãnh tụ kháng chiến chống pháp như Đinh Công Tráng với Chiến Lũy Ba Đình và ông Phan Đình Phùng với câu nói lưu danh sử sách khi giặc bắt thân nhân của ông làm áp lực dụ hàng, ông đã khẳng khái thể hiện tinh thần yêu nước cao độ: “Tôi có một ngôi mộ rất to nên giữ là đất nước Việt Nam, có một ngôi mồ rất lớn là mấy mươi triệu đồng bào. Nếu về hàng, để sửa sang phần mộ của cha ông mình, thì ngôi mộ cả nước kia ai giữ?”

Miền Bắc có ông Nguyễn Thiện Thuật lập căn cứ kháng chiến chống Pháp nơi vùng sình lầy nên được gọi là Chiến Khu Bãi Sậy vang danh lịch sử và ông Hoàng Hoa Thám đã dùng chiến thuật du kích chiến kéo dài nhiều chục năm, gây tổn thất nặng nề, làm cho giặc Pháp mất ăn mất ngủ nên được nhân dân ưu ái đặt cho biệt danh là Hùm Thiêng Yên Thế.

Đặc biệt, tất cả các lãnh đạo các tổ chức đấu tranh vừa kể, đa số xuất thân từ chốn quan trường nhận bỗng lộc vua ban và hưởng ứng lời kêu gọi Cần Vương của vua chúa triều đình nhà Nguyễn. Thế nhưng khi triều đình nhu nhược ký kết nhượng đất cho quân xâm lược, ra lệnh cho các ông ngưng chiến nhưng các anh hùng dân tộc trong kháng chiến đánh Pháp bất chấp lệnh vua ban, quyết chiến đấu đến cùng. Có lẽ, mọi người đều biết trong thời quân chủ vua là con trời, trái ý vua sẽ phải tội tru di tam tộc đến cửu tộc nhưng họ bất chấp hậu quả, xem thường hành động nhu nhược bán nước của giai cấp cầm quyền, tiếp tục chiến đấu cho nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.

Tiếp nối tinh thần bất khuất đấu tranh chống ngoại xâm của tiền nhân của những năm cuối thế kỷ 19, thập niên đầu của thế kỷ 20 lại có thêm phong trào Duy Tân với mục tiêu “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”do ông Phan Chu Trinh khởi xướng (1904-1908), cùng với Duy Tân là phong trào Đông Du do ông Phan Bội Châu phát động đưa thanh niên ra nước ngoài huấn luyện, học tập làm nồng cốt cho kháng chiến (1904- 1908), kế tiếp là Đông Kinh Nghĩa Thục do nhóm ông Lương Văn Can chủ xướng qua hình thức giáo dục nhưng thực chất là vận động toàn dân tham gia kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp (1907).

Bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ hai mươi nhiều tư tưởng tiến bộ lẫn biến động thế giới ảnh hưởng đến tinh thần đấu tranh của cách mạng Việt nam: một là cuộc cách mạng Tam Dân (dân sinh dân chủ dân quyền) năm Tân hợi năm 1911 do Tôn Dật Tiên lãnh đạo ở Trung Hoa; hai là chiến tranh thế giới (1914-1918); ba là cuộc cách mạng lật đổ Nga hoàng tháng mười năm 1917 do Lenin lãnh đạo. Có thể nói biến động của thế giới trong giai đoạn này ảnh hưởng không ít đến tư tưởng lẫn phương thức tổ chức đấu tranh của những người Việt Nam yêu nước.

Thế cho nên, từ đó các đoàn thể, hiệp hội, đảng phái lần lượt ra đời đáp ứng tình hình đấu tranh với mô thức đấu tranh mới, trong đó đảng cộng sản chỉ là một trong nhiều tổ chức, đảng phái chính trị, lực lượng yêu nước tham gia đánh đuổi thực dân pháp giành độc lập chủ quyền cho dân tộc Việt Nam.

Đọc lịch sử có thể nhận ra tất cả phong trào kháng chiến chống ngoại xâm theo truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam thể hiện ngay từ khi giặc Pháp có dã tâm chiếm đóng nước ta và đảng cộng sản che dấu tung tích, núp bóng dân tộc góp mặt đấu tranh bên cạnh các đảng phái cách mạng khác như:

Miền Bắc có: Việt Nam Quốc Dân Đảng; Đại Việt Quốc Xã; Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội; Đại Việt Duy Dân; Đại Việt Quốc Gia Liên Minh; Đại Việt Dân Chính; Đại Việt Quốc Dân Đảng; Mặt Trận Việt Minh; Đông Dương Cộng Sản Đảng...

Miền Nam có: Đảng Cộng Hòa Xã Hội (Cao Đài); Đảng Dân Xã (Hòa Hảo); Đảng Xã Hội Việt Nam; Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng; Tân Việt Quốc; Việt Đoàn Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội; Thanh niên Tiền Phong, Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp; Phong Trào Bình Dân Nam Kỳ...

Tất cả các lực lượng yêu nước đó liên tục đấu tranh cho mục tiêu độc lập dân tộc cho đến lúc ông Hồ Chí Minh chớp thời cơ, cướp chính quyền từ chính phủ trần trọng Kim đã được chính phủ Nhật Bản trao trả lại chính quyền sau khi thua trận trong thế chiến lần hai (1939-1945) và chuyện ông Hồ đọc tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 ở Hà Nội, ông ta cũng chỉ là đại diện cho chính phủ liên hiệp gồm các tổ chức, đảng phái, lực lượng dân tộc yêu nước chứ không chỉ có riêng đảng cộng sản như họ tuyên truyền bởi ngay sau đó không lâu, ngày 11/11/1945 ông Hồ Chí Minh đã phải tuyên bố giải tán Đông Dương Cộng Sản và núp dưới danh nghĩa Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác để tranh thủ toàn dân ủng hộ chính phủ liên hiệp do ông Hồ Chí Minh làm đại diện.

Từ đây, ông Hồ Chí Minh bắt đầu giở thủ đọan, gian manh chính trị theo mô hình tổ chức khủng bố, bạo lực cách mạng của lenin, stalin, Mao và làm theo chỉ thị từ cộng sản quốc tế. Ngoài mặt ông Hồ khoát áo dân tộc che dấu tung tích tay sai cộng sản quốc tế kêu gọi các tổ chức đảng phái đấu tranh, hòa hợp hòa giải thành lập chính phủ liên hiệp nhưng thực chất là chiêu dụ các đảng phái chính trị tham gia chính phủ liên hiệp, nằm dưới sự chỉ đạo của đảng cộng sản do ông ta lãnh đạo để thực hiện ý đồ đen tối của cộng sản quốc tế và những ai không theo thì ông ta ra lệnh ngầm cho tay chân thuộc hạ tiêu diệt không nương tay, kiểu như hàng sống chống chết.


Đến khi thanh tóan được các đối thủ chính trị, số bị thủ tiêu, số trốn chạy ra nước ngoài lánh nạn, ông Hồ Chí Minh lại sử dụng bộ máy tuyên truyền vận động lòng yêu nước vốn có trong truyền thống chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam vào cuộc toàn quốc kháng chiến 1945-1954. Trước khi chiến tranh kết thúc một năm tức vào năm 1953, cộng sản Việt Nam nhận chỉ thị của cộng sản quốc tế phát động phong trào cải cách ruộng đất “trí, phú, địa, hào đào tận gốc, tróc tận rễ” đấu tố xử tội, tịch thu đất đai, tài sản chia cho bần cố nông, chiến dịch kéo đài đến năm 1956.

Tiếp theo cải cách ruộng đất là phong trào Nhân Văn Giai Phẩm do những trí thức văn nghệ sĩ đã góp một phần xương máu, cả thời tuổi trẻ cho kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp nhưng cộng sản lúc này núp dưới tên đảng lao động trở mặt không thực hiện tự do, dân chủ nên họ lên tiếng yêu cầu nhà nước thực thi tự do, dân chủ cho Việt Nam nhưng tất cả đều bị trấp áp dã man. Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm được khởi xướng năm 1955 bị đàn áp thô bạo và bị dập tắt năm 1958.

Bước sang năm 1959, các mầm móng chống đối cộng sản đã không còn là nguy cơ đe dọa chế độ nên cộng sản qua Hội nghị Trung ương Đảng Lao động lần thứ 15 công khai chiêu bài chống Mỹ cứu nước thực hiện dã tâm thôn tính Miền Nam theo chỉ đạo của cộng sản quốc tế, ra quyết định: "Phải qua con đường đấu tranh cách mạng bằng bạo lực, cụ thể là dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ ách thống trị thực dân kiểu mới của Mỹ và tập đoàn quân sự tay sai của Mỹ...”

Từ quyết định đó cộng sản tuyên truyền trong dân chúng về tội ác Mỹ Ngụy, về thực dân kiểu mới tưởng tượng bằng những hư cấu mà thực dân mới áp đặt nền thống trị độc ác lên người dân miền Nam và chế độ tay sai Mỹ ác ghê lê máy chém khắp Miền Nam, rằng dân chúng bị áp bức bóc lột tàn tệ như nô lệ, đói khổ đến nỗi không có chén để ăn cơm, phải ăn bằng gáo dừa khô thay chén. Họ tuyên truyền ngày đêm “không có gì quý hơn...”kêu gọi nhân dân Miền Bắc thắt lưng buộc bụng, tất cả phải hy sinh cho giải phóng Miền Nam “đánh thắng giặc mỹ chúng ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”. Bên cạnh tuyên truyền dối về Miền Nam khốn khổ, chúng bưng bít thông tin cấm nhân dân cán bộ, đảng viên nghe đài “địch” xuyên tạc, nói xấu chủ trương, chính sách, thành tựu của đảng, gây hoang mang chao đảo mất niềm tin của nhân dân đối với đảng!

Rồi một ngày của năm 1975, ngày đoàn quân vào giải phóng thủ đô Saigon, trong đoàn quân chiến thắng đã có người ngồi gục xuống bên vệ đường khóc nức nở, vì hiểu ra rằng mình đã bị đảng lừa, tiếp theo là những người tập kết ra Bắc lúc đất nước chia đôi năm 1954 trở về với vài món quà “quý” từ hậu phương lớn Miền Bắc đã phải lúng túng, vụng về đến xấu hổ khi nhìn thấy sự phát triển trù phú sung túc của một miển Nam bị Mỹ Ngụy kiềm kẹp nghèo nàn khốn khổ mà họ được học tập để quán triệt và nghe ra rả trên các loa đài của đảng?

Thế rồi theo thời gian sự thật dần lộ ra, chiêu bài được gọi là chống mỹ cứu nước bị chính kẻ cầm đầu cuộc chiến ở Miền Nam là Lê Duẩn tuyên bố: “Ta đánh đây là đánh cho ông Liên Xô, ông Trung Quốc, đánh cho phe xã hội chủ nghĩa.” Bên cạnh đó, còn có nhiều câu nói của nhiều thế hệ lãnh đạo cộng sản phát ngôn tương tự như thế, kể cả hành động tay sai cho cộng sản quốc tế nhưng mở mồm ra là chửi bới những người không chấp nhận độc tài, độc ác cộng sản là tay sai, việt gian, phản động, bán nước!

Đọc lại lịch sử hào hùng của thời kháng chiến chống thực dân Pháp của tiền nhân cho đến quan sát thực tiễn hiện nay cũng như nhìn lại nhiều thập kỷ “đời ta có đảng” không khó để chúng ta nhận ra rằng công lao kháng Pháp, chống Nhật, đánh Mỹ đúng thật nhất chỉ là cú lừa “vĩ đại” của cộng sản đối với dân tộc Việt nam và hậu quả của nó vẫn còn rất nghiêm trọng bởi còn nhiều người hiểu lệch lạc, biết chưa đúng lẫn ngộ nhận về cái được gọi là công lao của ông Hồ chí Minh, của đảng cộng sản trong công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc.

Tất cả đều là tuyên truyền dối trá với tài liệu, sách giáo khoa lịch sử bị vo tròn bóp méo, viết theo chỉ đạo, viết theo lập trường nhiều hư cấu bịa đặt, không đúng với sự thật lịch sử, chỉ nhằm phục vụ mục đích chính trị của đảng. Thế cho nên, không thể chê trách những thế hệ sanh sau đẻ muộn bị nhồi nhét những điều không thật của lịch sử nên hiểu lệch lạc, biết không đúng lẫn ngộ nhận về nhân vật Hồ Chí Minh, về cộng sản Việt nam.

Có thể thấy, không chỉ có thế hệ trẻ sinh sau cuộc chiến hiểu lệch lạc, biết không đúng lẫn ngộ nhận mà còn có những người tham gia tổ chức cộng sản ngộ nhận về cộng sản. Có nhiều người phân vân tự hỏi:

Tại Sao con người cộng sản thời chiến dũng cảm, trong sạch đạo đức, sống thanh cao đầy nghĩa khí?

-Xin trả lời rằng đó là do phẩm chất nền tảng đạo đức, nếp sống đùm bọc yêu thương theo truyền thống dân tộc chưa bị cộng sản phá nát, đào tận gốc tróc tận rễ và những người gia nhập cộng sản thời kháng chiến chống Pháp phát xuất từ truyền thống yêu nước chân chính của tiền nhân. Họ không hiểu cộng sản “tròn méo”như thế nào, chỉ nghe tuyên truyền loáng thoáng đảng là tổ quốc, tổ quốc là đảng, yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội, họ chỉ hiểu mơ mơ màng màng rằng thì là cộng sản sẽ đưa dân tộc mình lên thiên đường, ở đó không còn người bóc lột người, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, tập thể làm chủ, nông dân có ruộng cày, công nhân làm chủ nhà máy... Rồi cùng dắt tay nhau đi đến thế giới đại đồng, xóa bỏ biên giới quốc gia, không còn cảnh sát công an, không còn nhà tù giam người yêu nước...

Đến hôm nay sự thật trần trụi về cộng sản đã phơi ra nhưng những người kháng chiến năm xưa vẫn nghĩ mình là người cộng sản: cộng sản chân chính! Thật ra họ đã ngộ nhận, họ chỉ có cái vỏ cộng sản chứ không thể trở thành người cộng sản khi trong lòng họ vẫn còn phân biệt được đúng sai, phải trái, thiện ác biết bất bình phẫn nộ trước bất công theo nếp nghĩ chung của dân tộc và nhân loại. Lẽ khác, những người kháng chiến cũ, không đủ trí năng tưởng tượng ra bản chất cộng sản như nó đang là độc ác gian tham, tội lỗi ngất trời. Biết thế, chắc chắn họ đã không tiếp tay cho gian đảng cộng sản xây trại lính, trại tù trên đất nước Việt nam. Tiếc thay đến bao giờ họ mới nhận ra mình đã ngộ nhận về cộng sản, về cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, về công lao đánh đuổi...về không có gì...trong đống con chữ đã qua sử dụng được tái chế, phục vụ công tác tuyên truyền dối trá của cộng sản Việt nam cho đến bao giờ...bao giờ?

Tài liệu, sách tham khảo:

1) Việt Sử Tân Biên của Phạm Văn Sơn.

2) Việt Nam Đấu Tranh 1930-1954 của Hoàng Tường.

3) Việt Nam Quốc Dân Đảng của Hoàng Văn Đào.

4) Việt Sử Khảo Luận của Hoàng Cơ Thụy.

5) Wikipedia (bách thư toàn khoa mở.)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.