Hôm nay,  

Lá Xanh Mùa Hè

27/04/201408:58:00(Xem: 4639)


blank
Trong cuốn phim lịch sử hào hùng The Alamo (1960) chàng Davy Crockett (do diễn viên gạo cội John Waynne đóng) đã nói một câu thật đơn giản mà bất hủ về thể chế Cộng Hòa: Republic. I like the sound of the word. It means people can live free, talk free, go or come, buy or sell, be drunk or sober, however they choose. Some words give you a feeling. Republic is one of those words that makes me tight in the throat - the same tightness a man gets when his baby takes his first step or his first baby shaves and makes his first sound as a man. Some words can give you a feeling that makes your heart warm. Republic is one of those words.

“Cộng Hòa! Tôi thích âm thanh của từ này. Cộng Hòa nghĩa là mọi người có thể sống tự do, tự do phát biểu, đi hay đến, mua hay bán, say sưa hay tỉnh táo, tùy họ chọn. Một vài từ cho bạn sự cảm xúc. Cộng Hòa là một trong những từ làm tôi nghẹn ngào. Nỗi cảm xúc khi cha mẹ nhìn con đi bước đầu tiên, hay khi đứa con trai đầu lòng vỡ giọng dậy thì và bắt đầu cạo râu như một người đàn ông thực thụ. Một vài từ làm cho bạn ấm áp cõi lòng. Cộng Hòa là một trong những từ đó!”

Chàng Davy Crockett với chiếc mũ bằng lông gấu mèo, cùng trung tá William Travis, James Bowie và 178 nghĩa binh địa phương gồm những người Mỹ và Mễ bất đồng với chính quyền Mễ Tây Cơ đã làm nên một huyền thoại trong lịch sử lập quốc của tiểu bang Công Hòa Texas. Chỉ với hơn 178 người, phần lớn là di dân, thiếu thốn đạn dược và trang bị, dám tử thủ thành cổ dòng truyền giáo Franciscan, xung quanh bao bọc bởi những cây gỗ gòn cottonwood (theo tiếng Tây Ban Nha gọi là Alamo) và biến ngôi nhà thờ truyền giáo thành một pháo đài chống lại đội quân hùng hậu thiện chiến 7.000 quân của tướng Santa Anna, một Napoleon phương Tây bách chiến bách thắng. Sau 13 ngày vây hãm, mất mát gần ngàn quân, tướng Santa Anna mới bình địa thành Alamo và giết chết tất cả những người giữ thành. Tinh thần yêu chuộng nền Cộng Hòa và cái giá cho tự do của trận đánh Alamo là điều ghi sâu vào sử sách ngàn năm oanh liệt.

Trong yên ắng của bóng đêm ngập đầy khói súng và sự mệt mỏi rã rời của gần 2 tuần kháng cự, trước khi bão tố đạn pháo của trận tấn công cuối cùng ập đến, hẳn phải nao lòng lắm. Vì ngày mai cái chết đã cận kề và những ước vọng được sống như le lói và mãi nguôi ngoai trong lòng trai trẻ. Và trước khi rừng đông rạng hé, khi được người bạn nghĩa binh hỏi đang nghĩ gì vào giây phút cuối ấy, Davy Crockett đáp rằng: “không nghĩ gì cả! chỉ nhớ thôi.” Và trong giây phút đó, nhạc đã cất lên như nói giùm nỗi lòng của những người anh hùng, The Green Leaves of Summer. Những chiếc lá xanh của mùa hè. Vâng! Chỉ có những chiếc lá xanh mượt mà sung mãn của mùa hè làm Davy Crockett nhớ nhất.  

A time to be reaping, a time to be sowing
The green leaves of summer are calling me home
T'was so good to be young then, in the season of plenty
When the catfish were jumping as high as the sky.

Trong đêm thâu tàn cuộc ấy, chàng nhớ rằng giờ là thời gặt, lúc gieo mùa. Những chiếc lá xanh của mùa hè làm lòng nhớ quê nhà quay quắt. Khi mùa đầy vơi dài rộng và thời trai trẻ thanh xuân sung mãn. Như những con cá quẫy tung mặt nước sông quê vui tươi, soi bóng trời xanh biêng biếc.

A time just for planting, a time just for plowing  
A time to be courting a girl of your own
T'was good to be young then, to be close to the earth
And to stand by your wife at the moment of birth.

Trong đêm cuối tàn khốc để trả giá cho sự tự do đó, nhìn những vết đạn pháo cày đau lòng đất, chàng chợt nhớ giờ là lúc trồng trọt cấy cày, giờ là lúc tán tỉnh cô bé cùng thôn. Ôi thời trai trẻ sao mà tươi đẹp thế! Nơi mặt đất này cạnh người vợ dấu yêu lâm bồn

A time to be reaping, a time to be sowing
A time just for living, a place for to die
T'was so good to be young then, to be close to the earth
Now the green leaves of summer are calling me home
T'was good to be young then, to be close to the earth
Now the green leaves of summer are calling me home

Và chàng nhớ da diết thời gieo giống, thời gặt hái. Một thời để sống và một nơi để chết. Thời trai trẻ xanh tươi sung mãn như những chiếc lá xanh mùa hè. Lay bay ca vui trong nắng vàng, mặt đất gần gũi thân thương, quê nhà bình yên thuở nọ…  

Có lẽ vào đầu tháng ba năm 1836 ấy ở San Antonio, những hàng cây cottonwood, cây sồi đã xanh tươi cành lá, rợp mát những dòng sông. Nắng ngập tràn cánh đồng lúa mạch, cánh đồng bắp non đang hứa hẹn một mùa màng no ấm. Những con suối và dòng sông tưới mát những ước mơ để cuối ngày có khói chiều cất lên từ những bếp nhà đơn sơ mà hạnh phúc khi người vợ đang đón chờ với đứa con thơ còn trên võng ầu ơ. Diệu kỳ thay hình ảnh những chiếc lá xanh của mùa hè lại là những khát vọng tuyệt vời nhất trong phút giây cận kề cái chết. Những chiếc lá sồi, những cánh đồng lúa chín, những thửa ruộng xanh mượt, những cánh đồng bắp vàng rực như mái tóc vàng tơ của người vợ trẻ, tiếng cá quẫy mình tung tóe mặt hồ như tiếng cười của con thơ dại lại làm lòng nặng trĩu nhớ quê nhà nhất. Gia đình – quê hương – đất nước, hình như chỉ gói trọn trong hình ảnh những chiếc lá xanh tươi của mùa hè. Nếu mùa xuân với những chồi non lộc biếc tượng trưng cho tuổi niên thiếu, thì mùa hè lá xanh thắm là hình ảnh tuổi thanh niên tràn đầy nhiệt huyết sung mãn, cho sự thành tựu một mái ấm gia đình. Và từ gia đình, thành tố đầu tiên mà căn bản nhất cho một thôn xóm, một tiểu bang, một đất nước được hình thành.

Để đánh đổi cho sự yên ấm và xanh tươi như mùa hè ấy, một khát vọng đơn sơ mà cháy bỏng về một chế độ Cộng Hòa, nơi mọi người yên vui với mùa màng, tự do đi lại và tự do chọn lựa đời sống. Như chàng Davy Crockett đã nói trong đêm cuối của cuộc chiến trước khi vùi thân vào lịch sử hào hùng.     

Đã hơn 178 năm trôi qua kể từ trận đánh Alamo vào tháng 2, ngày 23 năm 1836. Trận đánh Alamo đã nâng cao tinh thần chiến đấu của Texian (người dân Mỹ và Mễ cư ngụ tự nguyện tại Texas) dẫn đến cuộc phản công vào một tháng sau với chiến thắng huy hoàng của Sam Houston trước đội quân hùng mạnh của Santa Anna tại San Jacinto (Hạt Harris, Texas), đem lại nền độc lập cho Cộng Hòa Texas. Trận đánh Alamo đã để lại một thành ngữ: “Remember the Alamo.” “Hãy nhớ trận chiến Alamo” vì đó là trận chiến cho tự do và nền độc lập. Và tự do bao giờ cũng trả giá đắt bằng cả mạng sống. Những mạng sống trẻ trung hoa niên như những chiếc lá xanh của mùa hè.

Ca khúc The Green Leaves of Summer do Dimitri Tiomkin soạn với lời của Paul Francis Webster cho cuốn phim The Alamo (1960) đã thành công rực rỡ với nhiều giải thưởng Oscar cao quý. Những lời ca đầy hoài niệm sâu xa mà giản đơn như lời tự tình của Webster đã để lại cho lịch sử âm nhạc những lời ca kinh điển bất tử như The Shadow of your Smile (mà người viết đã có lần trình bày) Love is a Many-Splendored Thing hay Some Where My Love (sẽ gởi đến bạn đọc một ngày). Thể hiện ca khúc càng tuyệt vời hơn qua giọng ca của bốn anh em The Brother Four xứ mưa ngàn Seattle. Với bè trầm, chậm rãi, dịu dàng mà tha thiết đầy nhớ nhung. Như một tụng ca cho nỗi nhớ nhà và cỏi lòng hào sảng của người tráng sĩ.

Nhạc sĩ Tuấn Dũng đã chuyển qua lời Việt, đem ca khúc Lá Xanh Mùa Hè nhiều nỗi hân hoan, vui tươi và yên bình. Bởi có lẽ 3 cuộc chiến triền miên trên quê hương yêu dấu nhỏ bé, nỗi nhớ người yêu, nhớ nhà, nhớ quê hương trong chiến tranh dường như quá nhiều. Quá đủ nỗi mất mát, quá dư thừa nỗi buồn để phải trải bày trong khi niềm vui thì hiếm hoi.

Hè sang lá cây xanh màu
Hè sang vang tiếng ve sầu
Hè sang phượng tươi thấm màu
Ru say hồn thi nhân
Làn mây trắng lững lơ ngang trời
Dòng suôi mát lắng trôi êm đềm
Chìm trong nước xanh cá tung tăng
Nô đùa với rong vàng…

Dấu tích của trận chiến Alamo hào hùng năm nào giờ chỉ còn lại mặt tiền của bức tường bằng đá vôi trắng, những vết đạn pháo và những giọt máu đào như còn lẩn khuất vào từng phiến đá, thấm sâu vào từng mảng đất, từng lối mòn quanh thành cổ, nơi đông đảo du khách từ khắp nơi đến thăm với lòng ái mộ. Khi dạo quanh phố cổ theo lối mòn ven con sông đào thơ mộng River Walk nổi tiếng và xinh đẹp như Venice. Những con kênh nhỏ nhắn như vòng tay choàng qua eo của người tình. Những chiếc cầu cong xinh như một môi hôn nũng nịu và những hàng cây cổ thụ trăm năm trầm tư soi bóng. Bạn sẽ nghe lòng hoài niệm những trang sử lập quốc vẻ vang của người dân Texas. Những con người can đảm và hiếu khách, thân thiện như nguồn gốc của tên gọi. (Texas theo tiếng thổ dân da đỏ Caddo gọi là Teyshas có nghĩa “bạn hửu” hay “đồng minh”.)

Remember the Alamo! Vâng hãy nhớ Alamo, ngàn năm và ngàn năm sau nữa. Sự hy sinh cho nền Cộng Hòa sẽ vĩnh hằng như những cành lá mùa hè, mãi mãi xanh tươi theo đời sống của một miền đất tự do đầy thử thách. Như ca khúc Lá Xanh Mùa Hè đáng yêu này, mãi âm vang những rung động thiết tha khi mùa hạ về thênh thang.

Austin. Cuối tháng Tư, 2014.

Sean Bảo
 
www.baosinh.com | Tùy Bút site 
www.sean-bao.com | SB Graphic Design

.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.