Hôm nay,  

Nguyễn Lương Vỵ, Năm Chữ Ngàn Câu Và Bước-Nhảy-Lùi Qua Những Giấc Mộng Đời

12/29/201400:00:00(View: 4378)

Tập thơ “Năm Chữ Ngàn Câu” của thi sĩ Nguyễn Lương Vỵ (NLV) ra đời đúng một năm sau tập thơ “Năm Chữ Năm Câu” và cũng là tập thơ thứ 9 của ông. Hai tập thơ tiếp liền trong hai năm, tuy tựa đề của tập thơ chỉ khác nhau có một chữ, nhưng về nội dung, thần thái, biểu tượng và ẩn dụ thì khác nhau rất nhiều. Trong tập “Năm Chữ Năm Câu,” NLV đã tự mình thực hiện “cú nhảy sau cùng vàng câm trên bến lạ,” vượt qua giới hạn của ngôn ngữ để kinh nghiệm trực tiếp cái-không-lời. Từ kinh nghiệm đó, ông khai triển, thiết lập ngôn ngữ để phơi bày cái-thấy “Có-Không thiệt rốt ráo” trong lãnh vực Thi Ca. Lần này trở lại với độc giả, NLV lại ung dung thực hiện những “cú-nhảy-lùi” rất ngoạn mục từ cảnh giới “vàng-câm-trên-bến-lạ” để trở về lại giấc mộng đời của nhân gian trong tập “Năm Chữ Ngàn Câu”:

Nhảy qua một giấc mộng:
Nhảy qua một bầu trời
Giấc mộng thì nửa vời
Bầu trời thì lộn ngược…
(Không Đề I)

“Giấc mộng nửa vời,”“Bầu trời lộn ngược,” đó là ngôn ngữ tiêu biểu được NLV dùng để mô tả thực chất giấc mộng đời trong cõi người ta. Nhận thức này là điều tất nhiên đối với NLV, người đã có được một cái thấy rốt ráo cùng tột bản chất hư ảo của ngôn ngữ và khổ nạn của đời sống nhân gian. Thật không dễ dàng gì khi phải sống trong một “bầu trời lộn ngược” vì điều đó đòi hỏi một tâm hồn thật trầm tĩnh, an nhiên tự tại, được nuôi dưỡng trong một nếp sống thăng bằng ẩn dật, và trên hết, một trí tuệ tâm linh có khả năng dung thông tất cả nghịch lý và điên đảo của cuộc đời.

Sống hài hòa, không dính mắc với “giấc mộng nửa vời” trong một “bầu trời lộn ngược” của nhân gian chính là phong cách “nhập thế” của ẩn sĩ. Thông thường, những nhà thơ thực hiện thành công“cú nhảy lùi” sau khi đã tự mình bước tới “bờ hương chín” là người có tâm hồn rất thanh khiết và yêu thương trần gian hết mực. Ngoài ra, họ còn có tính kham nhẫn rất thâm sâu. Nói cách khác, lòng yêu thương và sự kham nhẫn là hai đức tính cần thiết để thi sĩ an trú và thi triển sức thấy, sức nghe giữa nhân gian. Thiếu hai đức tính này, thi sĩ sẽ tự hủy vì không thể nào (với trí tuệ và tâm hồn mẫn cảm của chính họ) lại có thể sống chung hài hòa với cái “giấc mộng nửa vời” trong “bầu trời lộn ngược” của nhân gian được. Chính trí tuệ và nhận thức của họ về cuộc đời sẽ biến họ thành những người cô đơn, “cuồng sĩ” trước con mắt nhân gian. Lịch sử thi ca và triết học đã chứng kiến biết bao nhiêu nhà thơ, triết gia tự hủy như thế chỉ vì trong “cú-nhảy-lùi” trở lại nhân gian, có thể vì họ đã bị “ma sát với thế tục” và tự mình “bốc cháy”. Đây là sự hiểm nguy luôn rình rập ở những “cú-nhảy-lùi” nhập thế của nhà thơ, và lắm khi còn nguy hiểm gian nan hơn việc phải “tự mình bước tới bờ hương chín.”

Vì sao NLV lại chấp nhận sự hiểm nguy, và đơn độc đến tột cùng như vậy để thực hiện “cú-nhảy-lùi” trở lại giấc mộng đời? “Cú-nhảy-lùi” đó mang ý nghĩa gì? Hỏi như vậy thì chợt nhận ra đó vốn là những lời tự hỏi, tự đáp mà thi sĩ đã dùng để mở đầu tập thơ trong bài “Tự Hỏi Tự Đáp,” đoạn I:

Vì sao ghiền mần thơ?
Mần thơ là mần thinh!

“Mần thơ là mần thinh!” Phải chăng đó cũng là cái bí quyết trong toàn bộ thi nghiệp của nhà thơ NLV? “Mần thinh,” theo chỗ tôi hiểu có hai nghĩa: Trước hết “thinh” cũng có nghĩa là âm thanh. Thinh âm là đơn vị nhỏ nhất và căn bản nhất của Thi Ca. Thi sĩ là người biết phối hợp một cách tài hoa, tâm ý của chính mình và phong cách xếp đặt các thinh âm để tạo ra Lời và ý nghĩa trong từng câu thơ, bài thơ.“Mần thinh” còn mang ý nghĩa khác tức là “sự tĩnh lặng.” Vì thế, ta có thể khai triển rộng ra như sau đối với cõi thơ của NLV: “Mần thơ tức-là mần thinh, mần thinh tức-là mần thơ, mần thơ không-khác-gì mần thinh, mần thinh không-khác-gì mần thơ.”“Mần thinh” và “mần thơ”: Đó là mối quan hệ mật thiết giữa “thể” và “dụng” trong thế giới Thi Ca NLV. Trọn đời NLV, ông sống trọn vẹn chí tình với từng con âm con chữ, ông chỉ “ghiền” một việc, đó là việc “mần-thinh-mần-thơ”:

Nay còn ghiền chi nữa?
Ghiền mần-thinh-mần-thơ!
(Tự Hỏi Tự Đáp – Đoạn II.)

Có thể nói rằng “mần-thinh-mần-thơ” vừa là phương tiện vừa là cứu cánh của đời thơ NLV. Lầm lũi “mần-thinh-mần-thơ” đã từng là phương tiện giúp NLV vượt qua các khổ nạn ngút ngàn của giấc mộng đời: Chính “Nàng Thơ” đã cứu rỗi đời ông. Nhưng khi đã tự mình vượt qua các khổ nạn đó,“mần-thinh-mần-thơ” cũng chính là cứu cánh của đời ông. Nhưng giờ đây, Thơ đã thăng hoa và ở một mức độ càng lúc càng thâm sâu hơn. Trong tập thơ này, nhất là trong 9 bài thơ năm chữ “Không Đề,” NLV “nhảy lùi” để nhìn lại các kinh nghiệm đời thường và rất thật của chính mình với một bút pháp rất thi vị, độc sáng và bình tĩnh lạ thường. Những ký ức buồn vui xa xưa và những khổ nạn mà ông đã từng trải qua trong đời được ông dìu về trong hồi tưởng nhưng không còn sức bùng lên như lửa ngọn mà chỉ tái hiện lại như những thước phim “câm,” lặng lẽ, nhưng không thiếu chất thơ qua tuyệt bút tài hoa của mình. Cả đời khổ nạn của ông đã được thi vị hóa trở thành một “Đời thơ không lửa ngọn” nhưng chắc chắn sẽ “Ngún mãi giấc xưa sau.” Vì lẽ? Vì ông đã rất tận tình với Thơ và với nhân gian. Dẫu cho nhân gian không lời đáp lại, thi sĩ vẫn tự móc mắt moi tim, tự mình kinh nghiệm tất cả nghịch lý điên đảo của cuộc đời mà bình thản “mần-thinh-mần-thơ” để chuyển hóa tất cả khổ đau của giấc mộng đời. Vì nhân gian đau khổ, nên thi sĩ cũng đã đau khổ. Vì nhân gian bệnh, nên ông cũng bệnh. Nhưng thi sĩ “Nằm bệnh nhớ trăm nơi / Thấy bóng mình ngàn chốn”:


Đời thơ không lời đáp
Tự móc mắt moi tim
Thời gian vút bóng chim Không gian chìm tăm cá
Đời thơ không quán xá
Chữ buốt giá tủy trời
Nằm bệnh nhớ trăm nơi
Thấy bóng mình ngàn chốn
Đời thơ không lửa ngọn
Ngún mãi giấc xưa sau…

Đời thơ không ngóng đợi
Mà động địa kinh thiên
Lóng xương mây tất nhiên
Rất thương ta thương bạn
Đời thơ không khổ nạn
Làm sao thấu được Thơ?!...
(Không Đề IV)

“Đời thơ không khổ nạn / Làm sao thấu được Thơ?” Những khổ nạn ngút ngàn cùng tột trong giấc mộng đời này, NLV đều đã tự thân trải nghiệm qua tất cả. Ông đã tự mình “nhảy qua” chúng nên có cái nhìn rất mới về bản chất của chúng. Với “cú-nhảy-lùi” trong tập “Năm Chữ Ngàn Câu” nầy, độc giả chúng ta sẽ có cơ hội được nhìn lại các khổ nạn của nhân gian qua lăng kính định tĩnh của hồn thơ NLV. Trong biển khổ của giấc mộng đời đầy những “Ru. Thét. Gào. Im. Ngất. Động” đó, duy chỉ có NLV thấy ra được sự kiện rằng:“Nắng chảy dài trên vách mộ” và “Mộ chảy dài trong kẻ tay.” Đó chính là thời gian và cái chết đang gậm nhấm và cuốn trôi tất cả giấc mộng nhân gian. Thế mà“Đời chẳng hay! Người chẳng hay!”

Sóng như bông – Bông như sóng
Ru. Thét. Gào. Im. Ngất. Động
Sóng nở gió – Bông nở em
Em nở ta. A! Cồi mộng!!!
Cồi mộng bay! Cồi mộng bay!
Đời chẳng hay! Người chẳng hay!
Nắng chảy dài trên vách mộ
Mộ chảy dài trong kẽ tay
Thấy hết! Không cần thấy nữa!
Biết hết! Không cần biết nữa!
Nghe không? Nghe không? Nghe không?
Nghe hết! Không cần nghe nữa!!!
(Ghi Chú Thơ Nguyễn Xuân Hoàng)

Nghe không? Nghe không? Nghe không? Chúng ta đã nghe ra được gì qua những thước phim “câm” từ “cú-nhảy-lùi” tuyệt kỹ này của NLV?

Tựa đề của tập thơ này là “Năm Chữ Ngàn Câu.” Như NLV đã tâm sự trong lời tựa:“Ngàn Câu, là cách nói ước lệ, phỏng chừng, vì khi viết xong 50 bài Thơ năm chữ, nhẫm tính đã trên con số ngàn câu.” “Ngàn câu,” phải chăng, cũng là cách nói ước lệ cho sự phơi bày vô tận phương tiện lực của một ẩn sĩ có sự hàm dưỡng rất thâm hậu về chữ nghĩa? Vô tận phương tiện nhưng chỉ có một mục đích duy nhất. Cái mục đích duy nhất đó, đã được nhà thơ Bùi Giáng chỉ ra một cách rất thiện xảo như sau:

“Nói nghìn lời để dìu cái-không-lời về trong cái- không-nói.”

Bùi Giáng thật uyên thâm:“Dìu” được “cái-không- lời” về trong “cái-không-nói” là trách nhiệm vô cùng khó khăn cho những ai trầm mình trong lĩnh vực Thi Ca và Tư Tưởng. Đó là sự khác biệt giữa một bậc thiên tài và kẻ tài tử: Trong khi sự non nớt của kẻ tài tử được lộ ra trong sự “hợp lý” của cái-được-nói ra, thì sự vĩ đại của thiên tài lại được cảm nhận ở sự chiêm nghiệm về cái-không-nói tới.

Thành công của thơ NLV chính là làm cho độc giả cảm nhận được cái-không-nói ra giữa những thước phim “câm” được đạo diễn từ những câu thơ “câm.”

Tuyệt chiêu thơ “câm” của NLV nằm ở cái bí quyết:“Mần thơ là mần thinh.” Chỉ khi nào nội tâm thi sĩ đạt tới sự “mần thinh” một cách rốt ráo, thì bút pháp thơ “câm” mới đạt tới cảnh giới thượng thừa.

Chỉ với năm chữ rất đơn giản và bình dị“Mần thơ là mần thinh,”“cái-không-lời” và“cái-không-nói” đã về “an trú” ngay trong ngôn ngữ “câm” nhưng lại rất thâm hậu, với thi pháp “năm chữ” rất điêu luyện, biến ảo kỳ tuyệt của NLV.

Xin tri ân thi sỹ NLV đã suốt đời “mần-thinh-mần-thơ” và trải lòng mình cho nhân gian bước vào chiêm nghiệm cái-không-nói bàng bạc trong từng nổi khổ nạn của giấc mộng đời. Cảm ơn ngôn ngữ thi vị, uyên áo và định tĩnh trong tập thơ “Năm Chữ Ngàn Câu” này.

Và sau cùng xin cảm ơn “cú-nhảy-lùi” ngoạn mục qua những giấc mộng đời trong tập thơ “Năm Chữ Ngàn Câu” của thi sỹ NLV. Nó giúp cho tôi nhận biết được bản chất thật của đời sống này: “Thì ra là mộng đầy”. Đó cũng chính là nhận thức cần thiết để một ngày nào đó, khi đầy đủ trí tuệ và kinh nghiệm của tự thân, tất cả chúng ta sẽ cũng sẽ sớm nhận ra:“Mộng hết trốn trong mộng!!!”

Calif., 11.2014

Tô Đăng Khoa

Ghi chú: Tập thơ “Năm Chữ Ngàn Câu” của Nguyễn Lương Vỵ đã phát hành, đề giá 18 USD.

Xin liên lạc

- Với NXB Sống:

Tel: (714) 531-5362

Email: [email protected]

- Với tác giả:

Vy Nguyen

P.O. Box 20022

Fountain Valley, CA 92728

USA

Email: [email protected]

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Bẩy mươi năm đã qua nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện: “Tên địa danh thuộc tỉnh Lai Châu, nơi diễn ra trận đánh quyết liệt của quân và dân ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm thực dân Pháp kéo dài 55 ngày đêm”.
JD Vance đã chứng tỏ một “đẳng cấp” khác, rất “Yale Law School” so với thương gia bán kinh thánh, giày vàng, đồng hồ vàng, Donald Trump. Rõ ràng, về phong cách, JD Vance đã tỏ ra lịch sự, tự tin – điều mà khi khởi đầu, Thống đốc Walz chưa làm được. Vance đã đạt đến “đỉnh” của mục tiêu ông ta muốn: lý trí, ôn hoà, tỉnh táo hơn Donald Trump. “Đẳng cấp” này đã làm cho Thống Đốc Tim Walz, người từng thẳng thắn tự nhận “không giỏi tranh luận” phải vài lần phải trợn mắt, bối rối trong 90 phút. Cho dù hầu như trong tất cả câu hỏi, ông đã làm rất tốt trong việc phản biện lại những lời nói dối của JD Vance, đặc biệt là câu chất vất hạ gục đối thủ ở phút cuối: “Trump đã thua trong cuộc bầu cử 2020 đúng không?” JD Vance đáp lại câu hỏi này của Tim Walz bằng hàng loạt câu trả lời né tránh và phủ nhận sự thật. Và dĩ nhiên, rất “slick.” “Trump đã chuyển giao quyền lực rất ôn hoà.” Cả thế giới có thể luận bàn về sự thật trong câu trả lời này.
Phải nhìn nhận rằng chuyến đi đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đến Mỹ đã được giới chức ngoại giao Việt Nam thu xếp để ông gặp được nhiều lãnh đạo, xem như xã giao ra mắt để hợp tác, hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lãnh vực trong tương lai. Bài diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc chỉ lặp lại các chính sách đối ngoại của Hà Nội, nên không được truyền thông quốc tế chú ý nhiều như các diễn văn của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky và Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, là đại diện cho những quốc gia trực tiếp liên can đến các xung đột ở Trung Đông, ở Ukraine mà có nguy cơ lan rộng ra thế giới. Ông Lâm mới lên làm chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Đảng Cộng sản được vài tháng, sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, nên ông muốn dịp đến Liên Hiệp Quốc là dịp để thể hiện vai trò lãnh đạo của mình và nhấn mạnh đến chính sách ngoại giao du dây của Hà Nội.
Sự bất mãn lan rộng với các hệ thống thuộc chủ nghĩa tư bản hiện tại đã khiến nhiều quốc gia, giàu và nghèo, tìm kiếm các mô hình kinh tế mới. Những người bảo vệ nguyên trạng tiếp tục coi Hoa Kỳ là một ngôi sao sáng, nền kinh tế của nước này vượt xa châu Âu và Nhật Bản, các thị trường tài chính của nước này vẫn chiếm ưu thế hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, công dân của nước này cũng bi quan như bất kỳ công dân nào ở phương Tây.
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
Biển Đông hiện như một thùng thuốc súng và, liệu nếu xung đột bùng ra, chúng ta có phải đối phó với một quân đội Trung Quốc man rợ mà, so với quân đội Thiên hoàng Nhật trong Thế chiến thứ hai, chỉ có thể hơn chứ khó mà bằng, đừng nói chuyện thua? Như có thể thấy từ tin tức thời sự, cảnh lính Trung Quốc vác mã tấu xông lên tàu tiếp tế của Philippines chém phá trông man rợ có khác nào quân cướp biển từ tận hai, ba thế kỷ trước? [1] Rồi cảnh chúng – từ chính quy đến dân quân biển, thậm chí cả ngư dân – trấn lột, cướp phá, hành hung và bắt cóc các ngư phủ Việt Nam từ hơn ba thập niên qua cũng thế, cũng chính hiệu là nòi cướp biển.
Hội nghị Trung ương 10/khóa đảng XIII kết thúc sau 3 ngày họp (18-20/09/2024) tại Hà Nội nhưng không có đột phá nào, mọi chuyện vẫn “tròn như hòn bi” dù đây là hành động đầu tiên của tân Tổng Bí thư Tô Lâm...
Việc nhà hoạt động dân chủ Trần Huỳnh Duy Thức được nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do trước thời hạn có lẽ là một trong những vấn đề đã được nội các chính quyền Biden-Harris quan tâm và vận động từ năm 2021.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.