Hôm nay,  

Harold James & Domenico Lombardi: Các Hậu Quả Quốc Tế Về Tình Trạng Cô Lập Của Nga

03/02/201500:00:00(Xem: 6202)

Cuộc khủng hoảng hiện nay của Nga, đặc biệt là với sự sụp đổ của đồng Rúp, hé lộ cho thấy một tình trạng mong manh không chỉ dành riêng cho nền kinh tế của Nga, mà còn chung cho một trật tự hiện nay của thế giới và các nền tảng tư duy của thời đương đại về tính bền vững trong chính trị và kinh tế. Thật vậy, không ai có thể nghĩ là khủng hoảng của Nga sẽ xảy ra bao giờ - và tình trạng của Nga bị cô lập ngày càng tăng sẽ ít gây ảnh hưởng cho cơ chế hiện nay về việc điều hướng trong toàn cầu.

Sau cuộc khủng hoảng về nợ của châu Mỹ La tinh trong những năm 1980 và cuộc khủng hoảng tài chính tại châu Á trong năm 1997-1998 (mà Nga cũng bị ảnh hưởng lây), các nền kinh tế mới nổi đã quyết tâm tìm hiểu làm thế nào để tránh những kinh nghiệm này tái diễn. Họ đã xác định được ba điểm chính về quản lý các hình thức rủi ro trong tiến trình toàn cầu hóa thuộc lĩnh vực tài chính hiện đại: một loại tích lũy dự trử có quy mô lớn để ngăn chận các cuộc tấn công có tính cách đầu cơ; tránh tình trạng thâm hụt nặng nề trong tài khoản vãng lai (sử dụng số dư để tích lũy dự trử); và giữ tình trạng nợ công từ nước ngoài (ngoại trái) và nợ thuộc về kinh tế tư nhân ở mức độ thấp.

Hơn nữa, các nền kinh tế mới nổi đã học được công việc điều hướng, họ công nhận là việc cải thiện nguyên tắc minh bạch và làm giảm tham nhũng là các nhu cầu bắt buộc phải làm. Giới hoạch định chính sách và các định chế tài chính tập trung nghiên cứu đến việc xác định những gì có thể tạo nên các chỉ dấu cho cảnh báo.

Nếu xét theo tất cả các tiêu chuẩn này thì trước năm 2014 Nga đã thực hiện rất tốt. Không có dấu hiệu nào đáng cảnh báo. Trong năm 2013, nợ nước ngoài (ngoại trái) của khu vực công lên tới 3,8 % của TSLQN và nợ nước ngoài của khu vực tư nhân đạt mức hợp lý là 30,2 % của TSLQN. Mùa xuân vừa qua, khối lượng ngoại hối dự trử của Nga còn ở một mức độ lành mạnh là khoảng 472 ngàn tỷ (billion), nhờ có số dư quá nhiều trong tài khoản vãng lai; và theo Ngân hàng Trung ương Nga, tổng số tài sản ở nước ngoài của Nga ở mức 1.4 tỷ tỷ (trillion) Đô la Mỹ, vượt quá khoản nợ phải chịu trách nhiệm để trả là 1.2 tỷ tỷ.

Vậy những gì sai lầm đã xảy ra? Một vấn đề có thể xảy ra là Nga không thể huy động dễ dàng được các loại tài sản trong thời kỳ khủng hoảng. Như các nhà kinh tế tại Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (Bank for International Settlements), mà đặc biệt là Claudio Borio và Hyun Song Shin, gần đây hai ông này đã nhấn mạnh đến các tình trạng cân đối tài sản tài chính thường phản ánh qua việc sử dụng các thương vụ ở nước ngoài như là một phương tiện để tạo thành một loại tài sản trung gian - một hệ thống tạo điều kiện cho phép vốn tư bản có quy mô lớn tháo chạy. Điều này có vẻ đặc biệt là đúng với trường hợp của Nga. Nói một cách khác, các doanh nghiệp của Nga sử dụng vốn tư bản đã huy động được ở nước ngoài để tích lũy tài sản, mà các doanh nghiệp này không nhất thiết phải chuyển loại tài sản này về lại trong nước.

Trong những trường hợp như vậy, thì những điều tệ hại có thể xảy ra - ngay cả đối với những nước có khối lượng dự trử to lớn và có số dư trong tài khoản vãng lai. Chung qui lại, các doanh nghiệp này có thể làm thất thoát nhanh chóng các khối lượng dự trử, thay vì họ tìm cách sử dụng các tài sản ở nước ngoài của họ, nếu họ thấy cần phải thực hiện việc thanh toán.

Các nhà kinh tế học đã quen thuộc với các chính sách kinh tế vĩ mô cổ điển mà trong cùng một lúc có đến ba vấn đề khó khăn để tiến thoái: đó là các quốc gia này không thể xác định được mức tỷ giá hối đoái, không mở rộng các tài khoản vốn tư bản, và cũng không có một chính sách tiền tệ độc lập. Nhưng đó cũng là một tình trạng tương tự trong khu vực tài chính mà dòng chảy của lượng vốn (trào lượng tư bản) không phù hợp với việc ổn định tài chính. Và khi các vấn đề an toàn quốc tế trở nên nổi bật, chẳng hạn như trong cuộc khủng hoảng hiện tại của Nga, việc tự do chuyển dịch vốn tư bản tạo ra nhiều biến động lớn hơn.

Trong những năm trước khi Thế chiến thứ nhất bùng nổ, cũng có một trường hợp tương tự đã xảy ra. Các mối quan hệ ngoại giao chặt chẽ giữa Pháp và Đức tạo điều kiện thuận lợi cho sự chuyển dịch của một khối lượng vốn tư bản đáng kể; nhưng trong thời điểm có căng thẳng quốc tế, chẳng hạn như trong lúc có khủng hoảng tại Morocco vào năm 1911, nó đã gây ra các cuộc tấn công có tính cách đầu cơ, làm nổi bật hơn về tình trạng cô lập của Đức ngày càng tăng.

Trong những năm giữa hai thế chiến, và đặc biệt nhất là trong những năm của thập niên 1930, khi một nền an ninh trật tự cho toàn cầu đã tan rã, các cuộc tấn công mang tính cách đầu cơ đã trở thành một công cụ để vận dụng chính trị. Đặc biệt hơn là phong trào Phát Xít Đức, họ hy vọng rằng bằng cách tạo áp lực tài chính cho Pháp, họ có thể gây ra một cuộc khủng hoảng tín dụng và ngân sách, do đó buộc Pháp giảm các kinh phí về quân sự.

Một trong những điểm nổi bật của một trật tự trong toàn cầu đã được áp dụng sau Thế chiến thứ hai là sự tương tác giữa các hệ thống điều hướng về kinh tế và an ninh, với cùng năm cường quốc này họ chiếm ghế thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, và trong thế hệ vừa qua, họ cũng đã nắm giữ Hội đồng Quản trị của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (QTTQT). Tình trạng này góp phần ngăn chặn các cuộc tấn công có tính đầu cơ do động cơ chính trị thúc đẩy và khôi phục sự ổn định tình hình tài chính và tiền tệ trên toàn cầu.

Liên Xô đã không nộp đơn xin làm thành viên của QTTQT. Tuy nhiên, trong những năm của thập niên 1990, Nga đã làm làm đơn và đã được chấp thuận có một ghế trong Hội đồng Quản trị. Sau đó, Nga đã lần lượt được kết nạp vào các tổ chức G-8 và G-20, một định chế được thành lập mới đây.

Nhưng G-8 đã đình chỉ hợp tác với Nga, và kết quả là Nga bị xuống cấp với quy chế là quan sát viên tại cuộc họp mới nhất ở Brisbane của G-20. Tóm lại, một trật tự cho thế giới đang được xây dựng lại - và Nga đang mất dần vị thế của mình.

Giới lãnh đạo chính trị tại Nga đã hy vọng về sự thành hình của một cơ chế mới hay tương tự cho việc điều hướng kinh tế toàn cầu, cơ chế này được các nền kinh tế mới nổi lên - thí dụ như Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi ủng hộ. Cái gọi là tổ chức BRICS đã kỳ vọng là sẽ thách thức các định chế quốc tế do phương Tây khống chế, đặc biệt là QTTQT, và các hệ thống tiền tệ lấy đồng Đô la Mỹ làm trọng tâm giao dịch. Và, ở một mức độ nào đó, họ có thể gây tác động. Nhưng, cho đến nay, tác động của các nỗ lực này còn hạn chế.

Ví dụ như trong tháng năm vừa qua, các thỏa thuận quan trọng về khí đốt mà Nga đã đàm phán với Trung Quốc đã có những điều kiện làm lợi cho Trung Quốc. Báo chí tường thuật là có bao gồm cả việc định các giá bằng đồng Nhân dân tệ và đồng Rúp, đáng lý ra phải là bằng đồng Đô la Mỹ. Nhưng với sự sụp đổ của đồng Rúp, người ta suy đoán là các điều khoản này đang đàm được phán lại.

Tương tự như vậy là vào tháng bảy, Tổ chức BRICS đã tạo ra "Thoả ước về một Qũy dự phòng bất trắc", như họ đã tuyên bố, Qũy này nhằm "ngăn chặn các áp lực đối với cán cân thanh toán trong ngắn hạn, cung ứng các yểm trợ hỗ tương, và tăng cường cho việc ổn định tình hình tài chính." Tuy nhiên, Nga khó có thể tìm trong cơ chế này một nguồn cung ứng tín dụng khẩn cấp cho tình hình khủng hoảng hiện nay.

Gần đây hơn, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị có cam kết hỗ trợ cho Nga. Nhưng ngôn ngữ mơ hồ này của ông Nghị đã phản ánh một thái độ do dự quá mức mà có lẽ sẽ còn kéo dải cho đến khi nào khủng hoảng kết thúc.

Tóm lại, cả hai cơ chế điều hướng do phương Tây khống chế và tổ chức BRICS còn sơ sinh đã quay lưng lại để chống Nga. Tại thời điểm này, hy vọng duy nhất của Nga là cuộc khủng hoảng gây nên một sự bất ổn nghiêm trọng và có lây lan đến độ mà giới đầu tư và các nền kinh tế mới nổi lo âu - và cuối cùng thì cả hai hệ thống điều hướng trong toàn cầu cùng bùng nổ.

* * *

Harold James là Giáo Sư Sử học và Quan hệ Quốc tế tại Đại học Princeton, Giáo sư Sử học tại European University Institute. Ông là tác giả các cuốn sách The Creation and Destruction of Value: The Globalization Cycle, Krupp: A History of the Legendary German Firm và Making the European Monetary Union.

Domenico Lombardi là Giám đốc The Global Economy Program, Centre for International Governance Innovation (CIGI) Canada.

Nguyên tác: The Global Consequences of Russia´s Isolation
http://www.project-syndicate.org/commentary/russia-global-governance-system-by-harold-james-and-domenico-lombardi-2015-01

Khủng hoảng Morocco (1905/06, 1911)

Khởi điểm của khủng hoảng Morocco là Liên minh Thân hữu (Entente cordial, 1904) do Anh và Pháp ký kết. Pháp đồng ý để cho Anh chiếm Ai Cập và Sudan. Bù lại, Anh ủng hộ cho Pháp chiếm Morocco. Thỏa thuận này đi ngược lại với thoả ước Madrid 1880 mà các cường quốc châu Âu và Hoa Kỳ công nhận về nền độc lập của Morocco.

Đức nhận thấy sự vi phạm này là một cơ hội để Đức can thiệp và làm suy yếu Liên minh Pháp và Anh. Đức cáo buộc là Pháp là vi phạm luật quốc tế và không tôn trọng quyến lợi kinh tế của Đức tại Morocco. Ngoài ra Đức công nhận quyền tự trị của Morocco và liên kết với Áo và Hung.

Khủng hoảng kết thúc với thoả ước Algericas Akte 1906. Pháp thắng thế với ưu quyền về tự do mậu dịch và cùng với Tây Ban Nha, Pháp có quyền cai quản Ngân hàng Trung ương và lực lượng cành sát Morocco. Đức mất các yêu sách trong thương thuyết. Để chống Đức, Liên minh Tam cường (Triple Entente 1907) gồm Nga, Pháp và Anh ra đời

Năm 1911 nội tình Morocco có nhiều xung đột hơn và quyền lợi kinh tế Đức bị thiệt hại trầm trọng, nên căng thẳng giữa Pháp và Đức tái diễn. Đức nhận ra rằng không thể nào ngăn cản quyền cai trị của Pháp nên chỉ đòi bồi thường thiệt hại kinh tế. Để phô trưong uy thế, Đức gởi chiến hạm Panther đến hải cảng Agadir và de doạ gây chiến. Cuối cùng, với thoả ước 1911, Đức chấp nhận cho Pháp cai trị Congo và đổi lại lấy được một phần đất ít giá trị hơn tại Congo thuộc Pháp. Khủng hoảng Morocco là một sai lầm nghiêm trọng về chính sách đối ngoại c ủa Đức trước thế chiến thứ nhất. (Chú thích của người dịch)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Truyện dài chống tham nhũng, lãng phí ở Việt Nam đã được thi hành từ Trung ương xuống địa phương, nhưng tham nhũng cứ trơ ra là vì sao? Thắc mắc này không phải đến thời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mới có mà từ khuya lắm rồi, ít nhất cũng từ khóa đảng VII thời ông Đỗ Mười làm Tổng Bí thư (28 tháng 6 năm 1991 - 26 tháng 12 năm 1997). Nhưng tại sao tình trạng này cứ kéo dài mãi và không có dấu hiệu suy giảm mà còn biến chứng, lan nhanh mặc dù nhà nước đã tung ra nhiều biện pháp phòng ngừa và chữa trị...
Tôi đã trót có dăm ba lời về nón cối, mũ cối, và dép râu nên (lỡ trớn) cũng xin được thưa luôn, đôi câu, về cái nón tai bèo...
Bạn ơi, -Kẻ trí tuệ ít lỗi lầm và khi phạm lỗi thì nhận biết và tu sửa. Kẻ ngu si không biết lỗi lầm và khi nhận biết thì biện minh mà không hề tu sửa. -Kẻ trí tuệ trước mọi sự việc đều tìm hiểu và phân tích lợi-hại. Còn kẻ ngu si chỉ nhìn thấy lợi mà không thấy hại. -Kẻ trí tuệ biết đo lường thời thế. Còn kẻ ngu si thì làm bừa, khi thất bại lại đổ lỗi cho Trời. Tức khí nhảy ra đâm chém dễ. Nhẫn nhục chờ thời khó, “Khảng khái cần vương dị. Thung dung tựu nghĩa nan.” (Lý Trần Quán Tiến Sĩ đời Lê Trung Hưng)
Theo VOA Tiếng Việt hôm 9-9-2022 bà Aler Grubbs, giám đốc Quốc gia USAID Mỹ tại Việt Nam và ông Nguyễn Kim Sơn, Bộ trưởng GD&ĐT-VN đã ký kết bản ghi nhớ nâng cao chất lượng giáo dục Đại học và thúc đẩy xây dựng một nền Đại Học Tự Trị tại Việt Nam...
Trận đánh tái chiếm cổ thành Quảng Trị kéo dài 81 ngày trong mùa Hè đỏ lửa 1972 là một trong những trận đánh dài và khốc liệt nhất trong chiến tranh Việt Nam. Trong tạp chí tháng Tư trên trang mạng khảo cứu lịch sử historynet năm nay, Thiếu Tướng hồi hưu John D. Howard, một sĩ quan West Point và cựu cố vấn tại chiến trường Việt Nam vào năm 1972 đã kể lại diễn biến toàn bộ chiến dịch và trận tái chiếm lịch sử này. Xin giới thiệu lại bài viết này nhân kỷ niệm 50 năm trận tái chiếm cổ thành kết thúc vào ngày 16 tháng 9 năm 1972...
Vào giữa tháng 3, chưa đầy một tháng sau khi Nga xâm lăng Ukraine, nhà khoa học chính trị Francis Fukuyama đã đưa ra một dự đoán nổi bật: Ukraine sẽ chiến thắng. Sáu tháng sau, Ukraine đang trên đà tấn công và tái chiếm lãnh thổ quan trọng giữa nhiều dấu hiệu là quyết tâm của Nga đang suy yếu. Các bản tường thuật chỉ ra rằng vũ khí và thông tin tình báo do Hoa Kỳ và các quốc gia đồng minh khác cung cấp đang mang lại cho cuộc phản công của Ukraine một sự thúc đẩy nghiêm trọng. Liên minh NATO vẫn bền vững và đoàn kết đứng sau Ukraine, bất chấp nỗ lực của Nga nhằm làm suy yếu sự thống nhất đó bằng cách hạn chế xuất khẩu khí đốt tự nhiên sang châu Âu...
Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) đã “cạn kiệt” các vấn đề quốc kế dân sinh hay sao mà lại đem những chuyện cũ ra thảo luận tại Hội nghị Trung ương 6 vào tháng 10?
GHPGVNTN, từ ngày thành lập vào tháng 1 năm 1964 đến nay, năm 2022, đã tồn tại 58 năm. Dù trải qua bao thăng trầm lịch sử theo vận nước nổi trôi, mà có lúc tưởng chừng như sức tàn lực kiệt, vì những chướng duyên từ bên trong hay bên ngoài, GHPGVNTN vẫn còn đó với dân tộc này. Đã có biết bao nỗ lực, âm mưu, kế hoạch, chính sách nhằm triệt hạ, GHPGVNTN vẫn còn đó trong chí nguyện và hoài bão của lịch đại Tổ Sư. GHPGVNTN còn tồn tại vì đó là Giáo Hội dân lập đứng trên lập trường Dân tộc và Đạo pháp thuần khiết.
Trong thời đại kinh tế toàn cầu hoá dựa vào tri thức và thông tin, thì kiến thức trở thành sức mạnh và Internet là phương tiện kết nối. Các kiến thức mới đang được phổ biến tự do trên khắp thế giới và mọi người có thể truy cập được dễ dàng hơn. Trước các chuyển biến dông bão này, tình hình cạnh tranh giữa các cường quốc không chỉ còn nằm trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế và an ninh mà còn canh tân kỹ thuật và nhiều quốc gia cảm thấy đang bị đe dọa bởi sự tụt hậu về kiến thức và trang bị kỹ thuật số...
Trước khi “tập kết ngược” (trở lại miền Nam) vào năm 1962, Nguyên Ngọc có thời gian lang thang ở cao nguyên Đồng Văn - Mèo Vạc. “Mùa Hoa Thuốc Phiện Cuối Cùng” là chuyện viết về người thật việc thật, nơi vùng giới tuyến (Việt/Hoa) này...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.