Hôm nay,  

‘Kho Đạn’ của Bắc Kinh

03/09/201500:00:00(Xem: 8594)

...nay họ mới thấy mình hết đạn vì chỉ còn chừng 700 tỷ đô la để đối phó với đời.

Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới từ năm 2001, Trung Quốc liên tục đạt xuất siêu và tích lũy một khối dự trữ ngoại tệ cao nhất thế giới vì tương đương với bốn ngàn tỷ Mỹ kim. Khi kinh tế hụt hơi thì khối dự trữ đó có thể là một loại quỹ chiến tranh để Bắc Kinh đối phó với thách đố của tình hình không? Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu chuyện này qua phần trao đổi của Nguyên Lam với chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa, tư vấn kinh tế của ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do.

Nguyên Lam: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, từ vài ngày qua, nhiều nguồn tin quốc tế báo tin là lãnh đạo Trung Quốc bắt đầu bán Công khố phiếu Hoa Kỳ trong kho dự trữ ngoại tệ để có thanh khoản ứng phó với nhiều khó khăn tài chính trước mặt. Động thái này gây quan ngại cho thị trường Hoa Kỳ vì có thể làm sụt giá trái phiếu và tăng phân lời hay lãi suất tại Mỹ. Trước khi tìm hiểu về hậu quả của biện pháp này, chúng ta sẽ vào cái gốc của hồ sơ ngoại hối của Bắc Kinh, là kho dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc. Xin đề nghị ông lần lượt trình bày cho bối cảnh của vấn đề.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Sau khi được gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO vào năm 2001, Trung Quốc mở rộng việc buôn bán với thế giới bên ngoài và đạt mức xuất siêu rất cao, là xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu. Nhờ số xuất siêu và chế độ kiểm soát ngoại hối, là can thiệp vào việc mua bán ngoại tệ với tỷ giá thấp của đồng nội tệ là đồng Nguyên, Trung Quốc tích lũy được một khối dự trữ ngoại tệ rất cao, có lúc được ước lượng là lên tới gần bốn ngàn tỷ.

- Chúng ta không quên là vào giai đoạn ấy, các nước Đông Á vừa bị vụ khủng hoảng tài chính biến thái thành khủng hoảng kinh tế nên xứ nào cũng có phản ứng tích lũy một khối ngoại tệ thật cao. Trung Quốc cũng vậy, mà dùng chính sách ngoại hối là hối suất thấp của đồng Nguyên để đông lạnh số tiền chảy vào kinh tế nhờ xuất khẩu nên mới có lượng dự trữ thuộc loại cao nhất.

- Với nhiều người thì đấy là một kho đạn hay một “quỹ chiến tranh” có thể giúp xứ này đối phó với dao động của thị trường và còn tác động vào quan hệ kinh tế với các nước khác theo chiều hướng có lợi cho mình. Thật ra tình hình đã đổi khác từ vài năm nay nên kho đạn ấy sắp cạn!

Nguyên Lam: Như mọi khi, ông khởi sự với một kết luận gây chú ý là kho đạn của Bắc Kinh đang cạn trong khi thế giới lại sợ rằng một chủ nợ của nước Mỹ đang bán tài sản làm kinh tế Hoa Kỳ sẽ bị ảnh hưởng. Vì vậy, chúng ta tìm hiểu tiếp xem Trung Quốc đã làm gì với kho dự trữ ấy?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Nói chung, khi có một lượng tài sản trong tay, người ta không cất vào kho vì tài sản ấy có thể mất giá, mà nên đem đầu tư ra ngoài. Nhưng khi đầu tư thì cũng phải tính rằng đầu tư vào đâu thì có lời mà vẫn có thể kịp thời đổi ra tiền mặt cho an toàn. Vì vậy, có hai tiêu chuẩn quyết định cho việc sử dụng khối dự trữ ngoại tệ ấy, là đầu tư có lời mà an toàn.

- Theo hai tiêu chuẩn ấy, Trung Quốc đầu tư vào thị trường trái phiếu Hoa Kỳ, tức là cho nước Mỹ vay tiền bằng cách mua Công khố phiếu Mỹ. Lý do ở đây là thứ nhất, thị trường trái phiếu Hoa Kỳ có đặc tính sâu rộng nhất, lớn hơn tổng số của năm nước đi sau; và thứ hai, có mức lưu hoạt cao nhất, nghĩa là dễ đổi ra tiền mặt đem về cho an toàn mà ít bị mất giá. Thí dụ cho đơn giản là trên thị trường Mỹ, nếu có đem vào hay rút ra cả trăm tỷ thì cũng không gây dao động mạnh như với thị trường Nhật, Euro hay thị trường Anh, hoặc đồng Phật lăng Thụy Sĩ. Vì vậy, Bắc Kinh mới “chọn mặt gửi vàng”, bằng cách gửi tiền cho Mỹ vay.

- Huống hồ việc đó còn có lợi về ngoại thương cho Bắc Kinh là nhờ tiền nhiều và rẻ, thị trường Mỹ càng nhập khẩu hàng hóa và tạo ra việc làm cho nhân công Trung Quốc. Vì vậy, cùng với đà xuất siêu, Trung Quốc trở thành chủ nợ lớn nhất của Hoa Kỳ, với tài sản Mỹ trị giá khỏang một ngàn bốn trăm tỷ đô la qua nhiều ngả đầu tư khác nhau.

Nguyên Lam: Có lẽ thính giả của chúng ta đang hiểu ra điều ông đã trình bày kỳ trước là một thế “phân công lao động” kỳ lạ, là Trung Quốc cho Mỹ vay tiền để dễ mua hàng của Trung Quốc và đôi bên đều có lợi trong thế hợp tác này. Có phải là như vậy không, thưa ông?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa đúng vậy, nhưng ở đây ta nên chú ý đến hai mặt ấn tượng và thực tế hay hiện tượng và bản chất.

- Về hiện tượng thì Trung Quốc được tiếng là chủ nợ số một của Mỹ, tức là có thể chi phối kinh tế và cả chính trị Hoa Kỳ. Khi ấy, đã có người ví von với ngụ ngôn rằng Tầu là con kiến chắt bóp để nuôi con ve sầu Mỹ cứ ve ve suốt mùa Hè! Nhưng về thực chất thì như ta nói kỳ trước, họ giàng số phận kinh tế vào sức tiêu thụ của thị trường Mỹ, của người dân Mỹ. Sự thật thì Trung Quốc quá lệ thuộc vào xuất khẩu mà thị trường Mỹ lại chỉ nhập khẩu có 12% nhu cầu tiêu thụ. Hậu quả là Bắc Kinh được tiếng là chủ nợ số một của Mỹ mà cái miếng hay thực lực lại là túi bạc của dân Mỹ. Kể từ năm 2008, khi dân Mỹ tiêu xài ít và nhập khẩu ít hơn là Trung Quốc bắt đầu lâm nạn.

- Tôi phải nhắc lại và nhấn mạnh đến quan hệ ấy vì nhiều người có cảm quan sai, kể cả vài chính trị gia ồn ào của Hoa Kỳ, rằng Bắc Kinh có ý đồ lũng đoạn kinh tế Mỹ qua chính sách ngoại hối với đồng bạc rẻ để thành chủ nợ của Hoa Kỳ. Thực chất ở đây lại khác. Dù Bắc Kinh có ý thao túng đi nữa thì khách nợ số một là Mỹ mới nắm dao đằng chuôi với khoản tài sản rất lớn do Bắc Kinh gửi sang Mỹ qua khối Công khố phiếu này.


- Sáu năm về trước, một giới chức kinh tế cao cấp của Bắc Kinh đã than là dù ghét Mỹ lắm thì vẫn phải cho Mỹ vay tiền, tức là vẫn đầu tư tài sản của mình vào thị trường Hoa Kỳ. Vì vậy họ cố tìm các ngả đầu tư khác để dần dần bớt lệ thuộc vào mức tiêu xài của Hoa Kỳ. Chuyện ấy đã rõ rệt hơn kể từ năm 2013. Nói cho cùng, nếu kinh tế Trung Quốc thật sự vững mạnh và ổn định thì họ thiếu gì cơ hội đầu tư ở bên trong mà vì sao cứ gửi qua Mỹ với phân lời quá rẻ. Chỉ vì sự an toàn!

Nguyên Lam: Câu chuyện quả là ly kỳ! Bây giờ, ta mới nói đến kho đạn của Trung Quốc. Thưa ông, Bắc Kinh hiện có bao nhiêu tiền và xoay trở thế nào với cơn sóng gió tài chính đang xảy ra?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Theo các ước tính mới nhất thì dự trữ ngoại tệ của Bắc Kinh vào cuối Tháng Bảy lên tới ba ngàn 650 tỷ đô la, có giảm so với số cao nhất là gần bốn ngàn tỷ năm 2013. Trong số đó, Bắc Kinh có chừng một ngàn 200 tỷ trực tiếp mua Công khố phiếu của Mỹ và cỡ 200 tỷ mua gián tiếp qua một cơ sở của họ tại Bỉ, vị chi là 1.400 tỷ, dù có nhiều thì vẫn chưa tới 10% của số công trái Mỹ. Còn lại là hai ngàn 250 tỷ thì có 900 tỷ cam kết vào các kế hoạch bành trướng thế lực kinh tế của Bắc Kinh, như Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng Cơ sở Á châu AIIB, hay Tân Ngân hàng Phát triển của nhóm BRICS, và hàng loạt dự án trong kế hoạch Nhất Đới Nhất Lộ của Con Đương Tơ Lụa. Ngoài ra, Bắc Kinh vừa trích ra 48 tỷ đô la cho Ngân hàng Phát triển Trung Quốc CDB và 45 tỷ đô la cho Ngân hàng Xuất Nhập Cảng Export-Import Bank of China.

- Bây giờ, giữa cơn khủng hoảng, nếu Bắc Kinh muốn giữ giá đồng Nguyên trong một hạn ngạch nhất định từ nay đến cuối năm thì có thể mất thêm mỗi tháng 40 tỷ đô la, tức là nội năm nay sẽ mất 200 tỷ nữa. Tất cả những số liệu trên chỉ là ước lượng và còn có thể thay đổi hàng ngày qua nhiều biến động dồn dập như ta có thể thấy trên các thị trường quốc tế. Và mình cũng chẳng nên quên núi nợ khổng lồ của Trung Quốc có thể đã vượt quá 28 ngàn tỷ đô la.

Nguyên Lam: Thưa ông, phải chăng vì vậy mà tuần qua Bắc Kinh bắt đầu bán Công khố phiếu Mỹ để thu về đồng đô la hầu ứng phó với những đòi hỏi mới? Nếu như vậy thì hậu quả sẽ là gì cho thị trường Hoa Kỳ?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Vì cảm quan ấn tượng sai, nhiều người cứ lo rằng khi Bắc Kinh bán Công khố phiếu Mỹ thì sẽ gây bất lợi cho Hoa Kỳ vì làm trái phiếu Mỹ mất giá, tức là làm tăng phân lời trái phiếu trên thị trường Hoa Kỳ khiến kinh tế Mỹ gặp khó khăn. Sự thật lại rắc rối hơn vậy.

- Việc Bắc Kinh bán tháo Công khố phiếu Mỹ không làm tăng lãi suất ngắn hạn trên thị trường Hoa Kỳ. Lãi suất ngắn hạn ấy là do Ngân hàng Trung ương Mỹ quyết định và có thể tăng nhẹ từ nay đến cuối năm sau khi đã hạ tới sàn từ cuối năm 2008. Lãi suất dài hạn thì tùy vào sự tính toán của thị trường theo quy luật cung cầu, nhưng tính toán đó thật ra vẫn căn cứ trên lãi suất ngắn hạn. Trong mấy ngày qua, khi Bắc Kinh kín đáo thông báo cho Bộ Ngân khố Hoa Kỳ và bắt đầu xả Công khố phiếu ra ngoài thì phân lời trái phiếu, là lãi suất dài hạn tại Mỹ, lại chẳng tăng như người ta sợ hãi. Ngay trong giả thuyết là phân lời tăng vọt vì sự hốt hoảng của thị trường thì Ngân hàng Trung ương Mỹ vẫn thừa khả năng chống đỡ. Đó là hoãn nâng lãi suất, hoặc thậm chí dùng lại biện pháp bất thường là “tăng mức lưu hoạt có định lượng” hay “quantitative easing”. Cụ thể là mua vào Công khố phiếu và trả bằng đồng đô la, tức là bơm tiền vào kinh tế.

- Nhìn cách khác, nếu Bắc Kinh bán tháo tài sản của họ dưới dạng Công khố phiếu Mỹ thì tài sản đó càng mất giá và họ sẽ lỗ nhiều hơn khi tiếp tục bán ra. Ngược lại, hậu quả là việc Mỹ kim sụt giá chưa chắc đã gây họa cho Hoa Kỳ: tiền Mỹ càng sụt giá thì hàng Mỹ thêm rẻ và càng dễ bán. Hãy nhìn Nhật Bản mà xem, từ ba năm nay, Chính quyền của Thủ tướng Shizo Abe chỉ mong đồng Yen sụt giá để cứu nguy kinh tế của mình. Vả lại, tiền Mỹ sụt giá lại còn giảm áp suất quá tai hại hiện nay cho nhiều nước Á Châu!

Nguyên Lam: Nguyên Lam xin tổng kết cuộc trao đổi về “kho đạn của Bắc Kinh”. Thưa ông, thính giả của chúng ta nên ghi nhận những gì từ các chi tiết quá phức tạp về kinh tế tài chính lẫn chính trị của kho dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Lãnh đạo Bắc Kinh giàng số phận kinh tế của mình vào sức tiêu thụ và nhập khẩu của xứ khác nên lệ thuộc vào thiên hạ mà cứ tưởng là có thể xưng hùng xưng bá với khối dự trữ ngoại tệ rất cao. Thật ra, họ thắt lưng buộc bụng người dân để có một kho đạn chủ yếu vẫn là Made in USA. Có những lúc họ tưởng rằng sẽ dùng kho dự trữ ấy như võ khí để ép Mỹ mà chẳng biết là họ chỉ kê khẩu súng nước vào đầu nhà tiêu thụ Hoa Kỳ đang khát nước mà thôi!

- Phũ phàng hơn vậy là nay họ mới thấy mình hết đạn vì chỉ còn chừng 700 tỷ đô la để đối phó với đời. Khi ấy, mỗi tháng có thể mất 40 tỷ để giữ giá đồng Nguyên, hoặc sẽ mất 40 tỷ vì nạn tẩu tán tài sản khi đồng Nguyên sụt giá. Mất cửa này hay cửa khác thì cũng là mất thế lực và uy tín của một quốc gia chỉ có cái thế mà chưa có cái lực!

Nguyên Lam: Xin cảm tạ ông Nghĩa đã phân tích sự thể rất đỗi ly kỳ này.

Ý kiến bạn đọc
03/09/201511:16:18
Khách
Sinh song, theo doi tin tuc trong xa hoi coi mo va lam viec lau nam o HK, chung ta co the du doan (surmise) rang HK la nguoi chu dong (manipulator) tao ra nhung su viec (events) tren ban co the gioi theo y minh.

Voi ky thuat dien toan (hardware & software) tinh vi nhat toan cau, HK da va dang thao ra nhung chuong trinh (applications) de dua ra nhung dap so (solutions) dua vao nhung an so (input variables) ma nguoi su dung muon. Nhung chuong trinh phan mem nay bao gom tat ca cac van de quan trong cho su song con va doc ton (super power) cua HK ve phuong dien CHINH TRI, QUAN SU, KINH TE, etc. Nhung bo oc SIEU VIET (Academic Scholars) gom du chung toc dat duoi su chi dao cua chinh phu HK cung nhu tu nhan lam viec ngay dem de sang tao ra nhung chuong trinh phan mem nay. Nho vao loi diem nay, Chinh phu HK biet truoc va su dung (apply) that huu hieu tao ra nhung su viec that NGOAN MUC tren ban co the gioi.

Tom lai, HK loi dung toi da ve ky thuat dien toan nay de tao ra mot He Thong Thai Duong He Ao (Virtual Solar System) ma HK la Mat Troi va tat ca cac quoc gia khac la nhung hanh tinh (planets) bat buoc phai xoay quanh no tren mot quy dao (orbit) bat buoc.

O DNA, Nhat Ban y thuc duoc dieu nay nen ho luon luon la dong minh TRUNG THANH voi HK. TQ chua y thuc duoc hoac vi the dien quoc gia (nationalistic) nen tuong minh ghe gom, hay khoe khoang, hu (bully) cac nuoc A Chau nho khac. Hanh dong (behavior) nay cho the gioi thay TQ chi la con Rong giay.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.