Hôm nay,  

Nghề Rèn

06/09/201522:16:00(Xem: 6622)
Nghề Rèn
 
VÕ HOÀNG

 

Hơn một tiếng đồng hồ rồi, Tư Huỳnh uống gần hết một bình trà mà than vẫn cứ cháy ngún ngún ở một góc lò. Thằng Mót vẫn chưa thấy tới. Hôm nay làm gì thì cũng phải rồi mấy cái lưỡi búa cho “thằng chả,” xong cái nợ đời, còn phải làm này làm nọ kiếm tiền nữa chứ!

Tư Huỳnh ngẫm nghĩ mà thấy mình vô phước, tưởng rằng làm thợ rèn vào thời buổi này dễ kiếm ăn, ai có ngờ nhiều việc phải làm không công, còn bị lằng nhằng khen chê.

Ở một góc lò, một đống ngùn ngụt nào là miểng bom, nhíp xe hơi, cọc sắt… Tư Huỳnh liếc xéo về phía đó, phát ngán. Tiền không ở đó mà chưa có giờ làm. Cả tuần loay hoay với mấy cái lưỡi cuốc “chưn tượng” làm cho Tư Huỳnh thấy rằng nghề của mình thật sự “chưa tới.” Không phải tại lửa, không phải tại nước sao nhiều cái bị nứt, chặt bỏ bớt xong rèn lại cũng bị nứt.

Hư, thường cho người ta là cái chắc, mà nhiều cái hư quá lấy gì mà thường, vì cuốc có đai, nhưng phải đai chưn tượng, không chưn tượng người ta không chịu. Tư Huỳnh không còn thấy hăng hái mấy trong cái nghề của mình, nhiều lôi thôi quá mà khó kiếm ăn.

Thằng Mót tới. Nó vừa đánh bò cạp vừa móc túi lôi ra bịch thuốc rê. Tư Huỳnh phì cười:

“Che mưa mà che bằng vải, cũng như không. Trời lạnh quá, mầy uống trà không?”

“Ừ, để đó tui, chú Tư.” Thằng Mót lột tấm lều vải ra khỏi người, lưng áo nó ướt một nửa phần trên. “Thứ này lâu thấm nước mà gió hổng bay, ‘đã’ hơn mủ chớ chú Tư!”

Lều vải “đã” hơn mủ, dao nhíp xe “đã” hơn dao cọc sắt, thuốc vấn “đã” hơn thuốc Vàm Cỏ, thằng này thì luôn luôn có cái này “đã” hơn cái kia. Tư Huỳnh với lấy một miểng bom nhỏ cào nhẹ bùn dưới gan bàn chân, chép miệng:

“Bữa nay ông Ba Sửu tới lấy mấy cái lưỡi búa, chút nữa mày cưa thêm hai khúc sắt làm luôn cho rồi, mai rảnh được làm cho người ta kiếm tiền.”

Thằng Mót lặng thinh. Nó không còn bực mình khi nghe Tư Huỳnh nhắc tới Ba Sửu nữa. Dưới mắt nó, “thằng chả làm lớn trong hậu cần mà chỉ được có cái tháo nhíp xe mười bánh bán cho lò rèn, rồi mượn làm giùm cái này cái kia…”

Dốc ngược ấm nước châm thêm vô bình tích, thằng Mót sực nhớ ra điều gì cần nói:

“Ờ, chệt Hón làm lèm phát, bán có tám trăm một cái hà chú Tư, chả còn nói là lèm của mình non lửa, mà mũi thì quá già, dễ gãy. Tui nghe tui tức mình.”

Tư Huỳnh nhìn thẳng vào mắt thằng Mót một lúc thì thở ra. Tự dưng mà thấy buồn ngủ trở lại. Phải chi nghĩ tới một số ít tiền sẽ được ngày hôm nay mà nghe thằng Mót nói tới vụ chệt Hón cũng rán mà làm, đàng này chút nữa Ba Sửu tới, cà kê đủ thứ chuyện từ chuyện hồi chín năm tới chuyện lập tổ hợp thợ rèn huyện, từ chuyện biển động chìm xuồng tới chuyện chệt Hón làm bộ đau không rèn giúp đồ hậu cần, rồi thỉnh thoảng “chỉ thị” thằng Mót dũa lại cạnh kia chút xíu, mài lại góc này chút xíu… Tư Huỳnh ngó ra ngoài, thầm mong đừng bao giờ thấy mặt Ba Sửu và thầm mong trời tối thật nhanh cho hết thật sớm ngày hôm nay.

Vậy mà làm xong cái đai búa đầu tiên thì Ba Sửu tới. Hắn dắt xe vào dựng tuốt phía trong lò rèn và để nguyên áo mủ ra ngồi trên sạp tre, hắt bỏ tách nước dư rót lại đó một ít, xong mới chào Tư Huỳnh:

“Mạnh giỏi anh Tư. Bữa nay thì chắc thế nào cũng xong đồ tui hén, tốt quá. Nghỉ tay chút đi, anh Tư, uống miếng trà mà. Mót, nghỉ mầy, làm nhiều quá không sợ đau sao?” Hắn uống một ngụm rồi nói luôn, “Mấy cái này chắc làm hơi lâu hả anh Tư, phải tối mới xong. Tôi chỉ ở đây được một chút rồi phải lên huyện có chuyện, để coi anh làm xong cái đầu ra sao đã, tui cho thêm ý kiến.”

“Ừ, ý kiến!” Tư Huỳnh buông búa đặt khối sắt hừng hực nóng trở lại lò, cười gượng:

“Bảo đảm, bảo đảm mà anh Ba, tối xong mà.”

Thằng Mót cũng thôi không kéo cưa nữa, nó ngồi bẹp trên miếng ván dầu, quẹt mũi nhìn chầm chập vào khúc sắt đang cưa dở nửa chừng, không nói gì cả. Tư Huỳnh gác một chân lên máng nước, ngửa cổ uống cạn tách trà:

“Cây lèm phát hôm trước xài được không, anh Ba? Tui ưng ý cây đó nhứt đó, nhíp xe mà!”

“Được thôi, hơi non lửa. Đáng lẽ anh trui thêm ít nước nữa, mới chặt tràm mà phải mài liền liền, gặp đước, bằng lăng dám cuốn mép lắm.”

Tư Huỳnh biết hắn nói đúng: “Đồ làm giùm nó vậy đó, hơi đâu tốn than trui cho tới!”

Ba Sửu xếp hai chân lên sạp, cao giọng:

“Nhu cầu lèm phát rồi đây tăng lên nhiều lắm, anh Tư. Đừng lo không có việc.”

Tư Huỳnh giật thót người. Đừng lo không có việc làm giùm à? Thằng Mót lần này không thể không quan tâm tới Ba Sửu, nó thỏ thẻ:

“Ông Hón làm lèm ‘tới’ lắm, chú Ba. Ổng làm mau hơn chú Tư nhiều.”

Ba Sửu đồng ý ngay:

“Cha Hón là thâm niên mà, chả chỉ có cái nghề rèn. Rồi đây tổ hợp cần nhiều thợ giỏi như vậy đó.”

Thằng Mót nói câu vừa rồi đúng là một câu nói mà Tư Huỳnh muốn nói. Tổ hợp thợ rèn huyện trong tương lai sẽ có hai lò. Người, thì cha con chệt Hón, Tư Huỳnh và thằng Mót. Tư Huỳnh lâu nay vẫn nghĩ nghề rèn mặc dầu cũng là nghề “làm dâu thiên hạ” nhưng ít ra phải có ít nhiều duyên nợ mới sống với nó được.

Việc tổ hợp làm thằng Mót lải nhải nhiều ngày và có ý định không làm với Tư Huỳnh nữa. Có một dạo, nó để Tư Huỳnh vừa quay quạt gió, vừa vỗ đe, rồi mài, giũa… Cáng đáng hết công việc cần có ít nhất hai người làm. Nó không đành lòng, phải trở lại lò.

Nửa năm nay, thằng Mót đã làm Tư Huỳnh thấy rằng nghề rèn không còn là một cái nghề nữa bằng cái nhìn thật sự ngán ngẩm với tổ hợp trong tương lai mà nó sẽ là một tổ viên.

Vô tổ hợp được mua đồ chế độ mà lương đâu có bằng mình làm riêng, chú Tư. Làm riêng “đã” hơn nhiều. Làm riêng dĩ nhiên là “đã” hơn, nhưng nhu cầu của hậu cần nhiều lắm, Ba Sửu nói thế và cho biết Huyện “quyết định yêu cầu” hai lò rèn phải sát nhập thành tổ hợp, vả lại, “cái lò anh Tư ở giữa xóm, mà theo phong tục nước ta, lò rèn phải ở đầu xóm, cuối xóm.”

Trong thâm tâm, Ba Sửu nghĩ rằng mình đã làm cái công việc thuyết phục được người thợ rèn theo sự sắp đặt của mình. Thằng Mót cũng cho như thế: “Chả đem hết đồ này đồ nọ tới làm, toàn là nhu cầu của huyện, của hậu cần làm mình đâu có dám nghỉ bỏ ngang xương được, chú Tư.”

Nhưng Tư Huỳnh cảm thấy không đúng hẳn như vậy. Nghề rèn dầu “tới” hay chưa cũng đã là nghề của mình. Cái “tinh” trong nghề mình đã bòn mót bao nhiêu năm nay đâu dễ một sớm một chiều bị gạt hẳn ra ngoài cuộc sống bằng những chuyện xét ra không dính líu gì tới sự cố gắng của mình. Việc Ba Sửu đem đồ đạc tới tấp nhờ làm giùm và việc lâu nay Tư Huỳnh phải mất ăn mất ngủ vì mấy lưỡi cuốc “chân tượng” là hai việc hoàn toàn khác nhau, mặc dầu hai việc đều đem lại cho Tư Huỳnh sự buồn nản kéo dài từ ngày này sang ngày khác.

“Không phải tại nước, không phải tại lửa,” Tư Huỳnh lẩm bẩm mãi vấn đề này. “Chẳng lẽ tại mình?”

Lâu nay nghĩ mãi Tư Huỳnh cũng vẫn chỉ biết có vậy, nếu không tại mình thì chắc chắn là tại chất thép. Có lần, Tư Huỳnh nghĩ tới sự phối hợp có thể giữa khối sắt nung đỏ và cái tâm của người thợ, những nhát búa chẳng hạn…

Ba Sửu dắt xe đạp lướt ngang qua mặt, miệng lải nhải những gì không rõ lắm. Tự dưng, Tư Huỳnh buông tách nước ngã sang, nói với theo:

“Bữa nào anh Ba về rẫy, trở lại đem theo cây lèm hôm trước tới đây tui trui lại nghe.”

Thằng Mót đang dúi đầu vào cái lưỡi búa làm dở, phần đuôi cắm ngập xuống than hồng, quay phắt lại:

“Ai biểu” – nó liếc nhanh ra cửa – “hôm trước chú Tư nói là làm cho cha Ba Sửu là làm lấy có thôi. Bây giờ chú kêu trui lại, mất công thêm.”

Nhìn theo cái bóng dáng hăm hở sấn ra ngoài trời đang mưa, Tư Huỳnh thấy lòng thật nhẹ nhàng. “Mình sẽ không bỏ nghề. Thằng Mót làm sao biết được có những ràng buộc thật thân ái giữa cái im lặng tịch mịch và tiếng bóp chát chói tai làm con người ta cảm thông được với những cái chướng mắt nhất trên đời. Thằng Mót làm sao biết được có những ràng buộc thật thân ái giữa tàn lụi của than hồng và sức chịu đựng vô cùng tận của máng nước làm con người ta dễ dàng nhận thấy cái tinh diệu của trời đất. Ừ! Cái máng nước chứa đựng trọn vẹn năm thức kim, mộc, thủy, hỏa, thổ của ngũ hành. Nhất là điều này, Ba Sửu lại càng không hiểu.

Tư Huỳnh lại nghĩ trở lại những lưỡi cuốc bị nứt và thấy rằng mình sẽ có lúc tìm được nguyên do, chứ bây giờ thì chưa ngoài cái ý tưởng nhất thời là cứ đổ thừa cho chất thép của nó không tốt, vậy thôi.

“Chệt Hón nói mình như vậy là đúng, Mót à! Ngày mai chắc tao nghĩ một bữa xả hơi.”

Tư Huỳnh luồn tay gãi lưng, ngẫm nghĩ, “Ít nhất cũng đúng với trường hợp Ba Sửu.” Thằng Mót quơ cây sắt nhỏ gạt đùa những hòn than trên lò. Tiếng nổ lách chách và những vệt lửa văng tung toé chắc làm nó vui lắm. Nó nghĩ tới ngày mai có quyền nằm nhà đọc hết cuốn chưởng, cho “đã.”

Tư Huỳnh cúi mình rót trà, nghĩ đến những lời lẽ thân thiện nhất để nói với chệt Hón vào ngày mai về nghề rèn.

(Trích: Măng Đầu Mùa, của Võ Hoàng & Tưởng Năng Tiến, Hương Quê phát hành 1982.

Nguồn: https://gocbebentroi.wordpress.com/2011/06/21/ngheren/ )

 

***

 

Truyện ngắn trên của nhà văn Võ Hoàng.

Tên thật Võ Hoàng Oanh. Sinh 1952 ở Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

1974: Gia nhập Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa.

1975-1976: Tù cải tạo.

1978: Vượt biển, đến Úc.

1979: Định cư ở Hoa Kỳ.

1980-1981: Cộng tác viên báo Đại Dân Tộc của Hà Túc Đạo và tạp chí Việt Nam của Vũ Thế Ngọc.

1982: Cùng với Tưởng Năng Tiến, Thượng Văn, Lý Khánh Hồng chủ trương tạp chí Nhân Văn ở San Jose.

1983: Gia nhập Mặt Trận ông Hoàng Cơ Minh.

1984: Về Thái Lan, Đông Dương.

1984-1987: Uỷ viên chính trị cấp Kháng Đoàn.

1986: Tổng Thư Ký Hội Văn Nghệ Kháng Chiến.

Mất ngày 28 tháng Tám 1987, tại rừng núi Nam Lào.
.

Tác phẩm:

Măng Đầu Mùa, truyện ngắn, cùng viết với Tưởng Năng Tiến, Nhân Văn xuất bản 1982.

Trong Lòng Cách Mạng, truyện ngắn, Nhân Văn xuất bản 1983.

Góc Bể Chân Trời, truyện dài, Nhân Văn xuất bản 1983.

Đất Lạ, truyện ngắn, cùng viết với Tưởng Năng Tiến, Hương Quê xuất bản 1984.

 

.

Nhà văn Võ Hoàng sẽ được tưởng niệm chung trong
Lễ Tưởng Niệm Cố Đề Đốc Hoàng Cơ Minh
và Các Anh Hùng Đông Tiến Năm Thứ 28
Ngày: Chủ Nhật, ngày 13 tháng 9 năm 2015
Từ    : 3 giờ đến 6 giờ chiều
Tại    : Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ
         14140 All American Way, Westminster, CA92683.

 

 


.
.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Rạch Gốc chẳng chợ búa gì hết, mọi thứ phải chạy đò lên Năm Căn mua… Một buổi sáng, bước ra trước sân Ủy ban, tôi ngạc nhiên thấy treo cờ tang. Hỏi sao vậy … trả lời: Ông Andropov chết. Tôi hỏi lại: Ông Andropov là ai thế? Trả lời: Không biết, nghe đài Hà Nội biểu treo cờ tang thì mình treo… Cờ tang cho ông Andropov nào đó treo rất đúng quy cách, chỉ kéo tới nửa cột, thòng kèm một dải vải đen nhỏ phất phơ trong gió biển…”
Nhưng Gangnam Style là câu chuyện âm nhạc vô hại, còn trong những vụ đã kể tại Việt Nam, khi người ta đăng đàn đăng tin giả mạo hay công khai chửi rủa, sỉ nhục lẫn nhau để được hàng ngàn người hào hứng vỗ tay, theo dõi, thậm chí cổ vũ, bênh vực và biến chúng thành hiện tượng như hiện nay, nó cho thấy có điều gì đó dường như chưa đúng lắm trong xã hội. Bởi đó là cách ứng xử bộ lạc, "đầu gấu" của giang hồ.
Có muôn vàn lý do, nhưng cốt lõi là nhân dân đã chán Chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Cộng sản của ông Hồ đến tận mang tai. Kế đến là tình trạng cán bộ càng giữ quyền cao chức trọng thì càng mất đạo đức, sa đọa và tham nhũng hành dân nên bàn dân thiên hạ phát chán, chả ai còn hồ hởi phấn khởi thực hiện phương châm “cán bộ đi trước làng nước theo sau” nữa.
Nói đến tỉnh Bạc Liêu thì đa số người hiểu biết không thể quên hai nhân vật điển hình, là ông Cao Văn Lầu và công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy. Ông Cao Văn Lầu là tác giả của bài Dạ Cổ Hoài Lang, được gọi chung là vọng cổ mà đào kép cải lương phải ca trên sân khấu. Ở Mỹ Tho cũng có một công tử, cũng nổi tiếng ăn chơi, tên là Lê Công Phước, được là Phước George. Người trắng trẻo, đẹp trai nên được gọi là Bạch công tử, để phân biệt với Hắc công tử Bạc Liêu.
Ngày nay Đại Lễ Vesak (Hợp nhất của ba ngày Đản Sinh, Thành Đạo và Nhập Diệt) của Đức Phật đã được Liên Hiệp Quốc công nhận. Trong ngày lễ này, Tổng Thư Ký LHQ, các vị nguyên thủ quốc gia, các giới chức chính quyền cao cấp tại những quốc gia Phật Giáo, hoặc tham dự hoặc gửi điện văn chúc mừng, chiêm bái tự viện, viếng thăm hoặc dâng hoa cúng dường chư tăng ni và Lễ Hội Phật Đản đã được quần chúng tổ chức trang nghiêm, cung kính.
Nhung các đối thủ (Nga, Tàu) hay đối tác (Âu) không chịu thua mà tìm đủ mọi cách phá vỡ vòng kim cô USD để tránh bị phong tỏa kinh tế lại điểm trúng tử huyệt của nền trật tự tự do toàn cầu (liberal world order) do Mỹ gầy dựng trên nền móng USD. Giải pháp nào sẽ hất ngã USD trong khi cả NDT lẫn Euro đều còn ít đáng tin hơn USD? Dưới đây là vài phỏng đoán thay vì dựa trên chứng cớ vững vàng. Giữa Trung Quốc, Nga và Iran đều thiết lập những đường dây hoán đổi ngoại tệ (currency swap) mà không thông qua hệ thống ngân hàng Mỹ. Thí dụ Iran bán dầu thu vào NDT rồi dùng NDT nhập cảng máy điện toán từ Trung Quốc (với điều kiện các máy điện toán này không chứa đựng bản quyền Mỹ trong đó.) Ngân hàng Iran có thể đổi trước một lượng tiền nội địa ra NDT dự trữ giao dịch mà không cần chờ đợi phải thu NDT từ bán dầu mới mua hàng Trung Quốc.
Nơi trạm xe buýt cuối ngày, chuyến xe cuối cùng chuẩn bị lăn bánh. Những người đến trễ và những người muốn ngủ lại nơi băng ghế chờ đợi, sẽ bị bỏ lại. Cơ hội tái diễn cho một chuyến xe khác, có thể là ngày hôm sau. Nhưng hôm sau, nào ai đoán được chuyện gì sẽ xảy ra. Người ta cần phải bước qua, bỏ lại lịch sử phía sau, bằng không sẽ bị bỏ lại bên lề lịch sử.
Cùng thời điểm, các nước trong vùng như Ấn độ, Mã lai, Phi luật tân,...bị Tây phương đô hộ, đều lần lược thu hồi độc lập, tổ chức đất nước theo thể chế tự do dân chủ và nhờ đó, đất nước phát triển mà không phải có hơn 10 triệu dân chết oan uổng như Việt nam. Chỉ vì họ không có hiện tượng Hồ Chí Minh!
NHững người trẻ sẽ không còn là “không chịu lớn.” Họ đã trưởng thành trong suy nghĩ của riêng họ. Và khi phải xuống đường bày tỏ những ước muốn của mình. Họ biết họ phải làm gì. Không thể nào ai đó bảo họ phải làm cái này hay phải làm cái kia. Họ không còn cần phải có lãnh tụ. Đất nước cần những con em như thế.
Hiệp Định Geneve, cũng như Hiệp Định Paris, đối với Bác và Đảng – rõ ràng – đều chỉ là một mớ giấy lộn. Tổng Tuyển Cử (1956) hay Đình Chiến (1973) cũng thế. Hoà bình là từ ngữ không hề có trong tự điển của những người cộng sản. Họ nhất định phải nhuộm đỏ hết cả nước VN (bằng mọi giá và mọi cách) thì mới thoả lòng.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.