Hôm nay,  

Ôi, Hoa Tàn Trăng Khuyết

10/11/201500:00:00(Xem: 6700)

1. Tôi không bao giờ ngờ rằng bài văn tế bằng chữ Hán, dưới đây, của một trạng nguyên Việt Nam, Mạc Đĩnh Chi, khóc một công chúa Tàu, nhân dịp cụ đi sứ sang Trung Hoa, cách nay bảy thế kỷ, lại có ngày trở về trong trí nhớ,

Thanh thiên nhất đóa vân,
Hồng lô nhất điểm tuyết,
Thượng uyển nhất chi hoa,
Dao trì nhất phiến nguyệt,
Y! Vân tán, tuyết tiêu,
Hoa tàn, nguyệt khuyết.

để cho lòng tôi hôm nay khóc một giai nhân, “công chúa” Mỹ, da trắng, tóc vàng, mắt xanh, Elizabeth Anne Thompson Phạm, vợ của người bạn chúng tôi, nha sĩ John Phạm Anh Bình. Y! Vân tán, tuyết tiêu / Hoa tàn, nguyệt khuyết, còn gì nữa đâu, hỡi ơi! Liz –tên thân mật của chị– đã đột ngột, tức tưởi vĩnh biệt cuộc đời, giữa tuổi thanh xuân, dạt dào sức sống.

a) Liz đẹp cả người lẫn nết, mai cốt cách tuyết tinh thần, như hai chị em mỹ nhân nhà họ Vương của thi hào Nguyễn Du. Ai cũng công nhận. Dù chỉ gặp chị một hay vài lần, như hai người bạn thân quý của tôi, cũng đã lần lượt ra đi trước chị chưa đầy một tháng: Paul Dương Xuân Kính và Linh mục Thomas Đặng Kim Hoàng. Liz hiền thục, lịch sự, hiếu khách, niềm nở, mà lại tự nhiên, chân tình. Giống như một phụ nữ Việt Nam truyền thống. Trong ánh mắt chị, chưa bao giờ người ta bắt gặp một sự phiền hà, khó chịu, giả dối, đóng kịch Tất cả từ chị toát ra một vẻ đẹp thanh cao, và nếu tôi không quá lời, vẻ đẹp thiên thần. Bạn bè, dù thân dù sơ, hay người mới quen biết chị không ai là không đem lòng thương mến. Nhà thơ Ngọc Bội gọi chị là “nàng tiên”, xinh đẹp và đầy phẩm hạnh. Giáo sĩ Huỳnh Quốc Bình so sánh chị với một người vợ trẻ Việt Nam đảm đang, tuyệt vời. Còn tôi thường phong cho chị tước hiệu Miss America. Mỗi lần được ai khen như thế, chị đều cười vui. Anh Bội và tôi, lớn tuổi nhất trong đám, luôn xem chị, và đối xử với chị, như một cô em (út) ngoan hiền. b) Nha sĩ Bình yêu thương chị thật lòng, và đáp lại, chị lúc nào cũng

lo lắng, chăm sóc anh và ba con từng chút. Điều đó, không bạn bè nào phủ nhận. Một lần ăn tối tại tệ xá, sau khi nhắp một hớp rượu nhỏ, chị mệt, và lẳng lặng ra nằm duỗi chân trên sofa, lim dim mắt, đám bạn thấy Bình đến bên, âu yếm hỏi nhỏ vợ: “Hon, how do you feel?”, rồi vuốt lên má, và hôn nhẹ lên môi, như vỗ về, trìu mến. Một lần, anh hãnh diện kể cho một mình tôi, và lần khác cho cả bàn tiệc, nghe về buổi gặp gỡ ban đầu, ly kỳ như tiểu thuyết, giữa hai người, khác với những lời đồn đải, đôi khi ác ý, về cuộc hôn nhân dị chủng hi hữu này. Sau khi nghe câu chuyện của anh, chúng tôi tin rằng họ đã gặp nhau, lấy nhau vì tình yêu, và duyên số. Không bởi lý do nào khác. Danh phận, bạc tiền, nhà cửa, tiện nghi… không quan trọng đối với người thiếu phụ Mỹ có mái tóc vàng óng ả, dáng vẻ tuyệt đẹp, và tâm hồn dịu hiền rất Việt Nam –mà một trăm năm nữa, chúng tôi nói với nhau, cũng không dễ tìm được. Dù là vợ một nha sĩ, chị vẫn ăn mặc giản dị, vẫn mang cái xắc loại thường, vẫn không mướn người làm, để tự tay chăm sóc con cái, nhà cửa, vẫn làm việc trong clinic của chồng. Mười lăm năm chung sống và ba mặt con (đứa nhỏ nhất mới được bảy tháng) đủ để minh chứng chuyện của một tình yêu đích thực, qua nhiều thử thách. Giống như chuyện của bất cứ tình yêu đích thực nào, bất diệt và tầm thường, mang đến mỗi ngày tất cả hạnh phúc và thương đau, với lúc bên nhau vai kề vai và lúc nói lời vĩnh biệt, với những đêm âu lo và những sáng tuyệt vời, như qua lời hát của Dalida, một hồng nhan bạc mệnh khác, trong bài “Histoire dun amour” bất hủ:

C'est l'histoire d'un amour éternel et banal
Qui apporte chaque jour tout le bien tout le mal
Avec l'heure où l'on s'enlace, celle où l'on se dit adieu
Avec les soirées d'angoisse et les matins merveilleux

Sau câu chuyện kể về mối tình đầy thơ mộng của hai người, trong một buổi tiếp tân tại nhà anh, cách đây gần một năm, có đông khách dự, tình cờ tôi đứng cạnh Liz, và bất ngờ chị quay sang hỏi tôi có biết chuyện tình lãng mạn nào trong văn chương thế giới không, để kể cho chị nghe. Tôi hơi ngạc nhiên, nhưng vẫn điểm nhanh trong trí nhớ những chuyện tình kim cổ nổi tiếng. Nhiều lắm, mà không hiểu sao, tôi dừng lại với thiên anh hùng ca The Aeneid, ít phổ quát, của thi hào La tinh Virgil. Trong đó có đoạn kể về Aeneas, hoàng tử và anh hùng bại trận thành Troy, vượt biên, tắp vào một hòn đảo, gặp Dido, nữ hoàng Carthage, và hai người yêu nhau say đắm. Rồi Aeneas, theo lệnh của mẹ, là nữ thần Venus, tìm cách bỏ trốn Dido, để tiếp tục cuộc hành trình đến Cumae, rồi sông Tiber, và sau đó lập nên thành Rome. Tuyệt vọng, Dido than khóc, rút kiếm tự đâm vào ngực. Về sau, Aeneas, với sự trợ giúp của nàng Sibyl of Cumae, tên Deiphobe, vượt được sông Styx, xuống âm phủ tìm cha, đang trú ngụ tại Elysium –nơi ở của những anh hùng và người công chính. Kế bên Elysium  là The Mourning Fields (Lugentes Campi), Những Cánh Đồng Nước Mắt, bao la, dành riêng cho những mỹ nhân đã chết vì tình, và tại đây chàng tình cờ gặp lại Dido, nay chỉ còn là hình bóng nhạt nhòa, đang rảo bước vô một khu rừng bát ngát. Tới đoạn này, thấy hơi mệt, tôi ngừng kể, hẹn Liz một dịp khác. Và dịp đó, không bao giờ còn nữa...  Chị nghe xong, tấm tắc khen: “Its very interesting. I like it. Thank you, anh Kuy!”.

2.  Tối thứ ba 27/10, nhận được tin cảnh sát đã tìm thấy xác chị trên sông Cowlitz, cả gia đình tôi bàng hoàng. Sững sờ. Như vậy, một chút hy vọng nhỏ nhoi cuối cùng cũng tiêu tan. Loan, vợ tôi, người vẫn tin rằng Liz đang tá túc đâu đó, sẽ trở về bình an, đã bật khóc, và thút thít kể: “Hèn chi lần cuối cùng mình ăn tại nhà anh chị, cách đó hai tuần, khi về, Liz đã tiễn em ra tận ngoài sân, ôm hug em đến bốn, năm lần, thật lâu, khác với thường lệ. Đó là điềm báo rõ ràng, mà em đâu có hay.” Trong khi hai con tôi, Marie-Joséphine và Xavier (bạn với Keatan, con trai của anh chị), mặt buồn hiu, mắt đỏ hoe, ngưng cãi nhau, và ngồi thức với tôi cho đến một giờ sáng để nói về những kỷ niệm với “cô Liz”, rồi cuối cùng chấm dứt bằng câu, “we miss her so much!”. Buồn đau, như khi được biết chị mất tích, cách đó ba tuần, ngày nào tôi cũng dán mắt vào màn ảnh TV để chờ tin mới. Phu nhân của những người bạn khác, như chị Bình, chị Dương, chị Trường, cũng chan chứa lệ rơi.


Tôi còn nhớ những bữa ăn cuối tuần tại nhà anh chị, hoặc tại nhà tôi, có đông bạn bè. Là gia chủ, lúc nào chị cũng được trông thấy trong bếp, bận bịu nấu nướng và chăm lo mọi thứ cho khách, kể cả rót thêm nước, thêm rượu, mời thay cho ông chồng đang thao thao bất tuyệt về đề tài chính trị hay thời sự. Tại nhà tôi, vừa bước vào, chị đã đi thẳng tới bếp, hoặc giúp Loan sửa soạn bữa ăn, hoặc giành rửa chén. Loan luôn can ngăn, nói (tạm dịch): “Mình đã làm xong hết rồi. Còn việc rửa chén, đó là job của anh Quý, my husband, you know. Thôi, Liz ra bàn ngồi nghỉ cho khoẻ, please.” Trong bữa ăn, ở đâu, chúng tôi cũng có thói quen xài tiếng Việt, để dễ bề tranh luận về chính trị, có khi rất sôi nổi, và vì lâu lâu mới gặp lại nên thèm nói tiếng mẹ đẻ, cho hả, nhất là Bình –suốt tuần phải tiếp toàn bệnh nhân Mỹ. Liz cũng phải nghe, không hiểu, nhưng vẫn gật gù, tươi cười. Khi còn cô nha sĩ Mai, dân Canada, qua hành nghề trong clinic của Bình, tôi luôn xếp Mai ngồi cạnh Liz, để làm thông dịch viên thường trực. Lúc Mai về lại Canada, thỉnh thoảng tôi nhắc chị Bình, hay chị Dương, hay chị Trường, ngồi gần, dịch cho Liz. Tôi không muốn Liz cảm thấy lạc lõng trong một rừng tiếng Việt, mặc dù có lần chị đã ghi danh theo học Việt ngữ tại trường Văn Lang. Nay chị mất rồi, nhớ lại vẻ mặt ngơ ngác của chị khi không hiểu tại sao thỉnh thoảng chúng tôi cười ầm lên, hoặc lớn tiếng, tôi rất ân hận, nghĩ rằng đúng ra, chúng tôi phải dùng Anh ngữ lúc có chị, cho phải phép.

Lấy chồng Việt Nam có tính thần quốc gia chống Cộng, như nha sĩ Bình, Liz cùng anh đến tham gia những buổi lễ quan trọng của Cộng đồng Oregon, mỗi cuối tuần từ Chehalis xuống Portland. Và trong những dịp ấy, chị mặc chiếc áo dài phụ nữ Việt Nam kiêu sa, quấn trên cổ một dây choàng thêu hình cờ Vàng. Có khi được mời lên phát biểu cảm tưởng, chị không quên ca tụng “đồng hương” hải ngoại và nói chị thích nghe những bài hát Việt Nam. Khiến tập thể người Việt Tỵ Nạn quốc gia chống Cộng càng quý mến chị hơn. Quả vậy, Chúa Nhật 25/10, trong dịp Bình tổ chức lễ cầu nguyện cho chị tại tư gia, hai cô Vương Ngọc Lan và Mary Nguyễn, đại diện Ban Chấp Hành Cộng đồng Oregon, cũng đến tham dự.

3. Tất cả dường như hứa hẹn cho Liz một hiện tại đầy hạnh phúc và một tương lai đằm thắm với chồng, với con. Mặc dù, tôi biết, hạnh phúc thật không có trên cõi đời, bởi vì choáng ngợp trước ảo ảnh lừa phỉnh, có mấy ai còn để ý, nâng niu hạnh phúc bên mình, cho đến lúc tất cả vuột khỏi tầm tay, biến mất? Tất cả hứa hẹn cho Bình và Liz một đời bình an, thương yêu, gắn bó bên nhau. Nhưng vì đâu phải ra nông nỗi này, hả Trời? Vì sao, vì sao, vì sao, Chúa ơi? Cơn mê, hay cơn muộn phiền, nào đã khiến buổi sáng 10/10 ấy chị lặng lẽ bỏ nhà ra đi, không một lời vĩnh biệt, trong bộ đồ ngủ, chân không giày? Nỗi tuyệt vọng ghê gớm nào đã bắt chị ngồi ngắm thật lâu dòng sông Cowlitz –dòng sông mà sau đó đã cuốn trôi thân xác chị đi biền biệt, để cho “Oan kia theo mãi với tình / Một mình mình biết một mình mình hay” (Kiều)?

Than ôi!  Vì sao cùng buổi sáng đó, cùng giờ phút đó, anh Bội và tôi lên Seattle tham dự cuộc “Hội thảo về đại thi hào Nguyễn Du và Truyện Kiều”, cũng chạy ngang qua exit 57, nơi mà chị đã bỏ xe lại, nhưng ngược đường, không thấy gì hết, không biết chi cả? Vì sao, chị không gặp được một người thân quen nào, và những cư dân Mỹ xa lạ quanh khu phố đã gặp chị, trong trạng thái bất thường, vô hồn, mà không ai gọi báo cảnh sát? Vì sao phép lạ đã không xảy ra để có ai đó chận lũ “ma đưa lối quỷ đưa đường / Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi” (Kiều), giùm cho chị?

Phải chăng, tất cả đó là Định Mệnh? Định Mệnh, ôi! Giờ này tôi chỉ còn biết trách Định Mệnh nghiệt ngã đã bắt chị đầu hàng, bất lực, nằm xuống trong cô đơn, thê thiết. Định Mệnh nghiệt ngã của những vở bi kịch Hy Lạp nhuốm màu huyền thoại cổ xưa, mà nạn nhân khốn khổ, bất hạnh, tiêu biểu nhất vẫn là Antigone, con vua Oedipe –người đã vô tình giết cha và cưới mẹ mình. Antigone, hay Dalida, hay Elizabeth, hay Ngô Đình Lệ Thủy, hay Ngô Đình Lệ Quyên, hay bất cứ mỹ nhân mệnh yểu nào, không có tội tình gì, ngoại trừ một tội là đã trẻ đẹp và đức hạnh, và bởi thế cứ bị Định Mệnh đeo đuổi mãi, không buông tha. Cũng như, lãng mạn hơn, Thúy Kiều bị “trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.

4. Bây giờ, khi Liz không còn nữa, tôi mới chợt hiểu tại sao chị thích câu chuyện tình mà tôi đã bất ngờ kể cho chị nghe một lần, như tự tiềm thức, về nàng Dido trong tác phẩm của Virgil. Có lẽ chị bị quyến rũ bởi The Mourning Fields, Những Cánh Đồng Nước Mắt, dưới địa phủ, nơi mà những linh hồn mỹ nhân chết vì tình trú ngụ trước khi được đưa về Cõi Vĩnh Hằng. Nơi có những vạt cỏ myrtle xanh tận chân trời, những hàng bạch dương soi bóng bên dòng nước, những đám mây trắng lững lờ, và không gian thinh lặng cho ngày tháng muộn phiền khôn nguôi. Tôi tin rằng Liz trên dương thế đã sống trọn vẹn tình yêu cho chồng, cho con, và khi lìa đời đã mang theo trọn vẹn tình yêu ấy xuống tuyền đài, tức Những Cánh Đồng Nước Mắt.

Thôi, chị Liz ơi! Thôi hết rồi những ưu tư, phiền muộn. Thôi hết rồi những cơn mê, cơn đau Thôi hết rồi những tuyệt vọng ê chề. Hãy trả lại hết khổ lụy, hay hạnh phúc, cho đời. Chị đã được giải thoát, và cứu rỗi rồi. Tại bất cứ nơi đâu, trong Những Cánh Đồng Nước Mắt của Virgil hay trên Thiên Đàng rực rỡ, hãy ru giấc mộng lành ngàn năm, bình an, thảnh thơi, trong vòng tay rộng mở của Thiên Chúa nhân từ, luôn luôn yêu thương, luôn luôn tha thứ. Khác với Định Mệnh nghiệt ngã của những vở bi kịch Hy Lạp nhuốm màu huyền thoại cổ xưa.

Portland, 2/11/2015

Ngày Lễ Các Linh Hồn

Kim Thanh Nguyễn Kim Quý

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
Việt Nam bước vào năm Giáp Thìn 2024 với gánh nặng tham nhũng và một đội ngũ “không nhỏ” cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức lối sống. Đó là cảnh báo của người đứng đầu đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, trong cuộc phỏng vấn đầu năm của Thông Tấn Xã Việt Nam...
Từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Triết gia Mạnh Tử (372-289 BC) của Trung Hoa đã nói rằng, “Dân là quý, thứ đến đất nước, rồi tới vua.” Điều đáng nói là Mạnh Tử là người đi theo học thuyết của Nho Gia vốn chủ trương vua là con ông Trời (Thiên tử) được sai xuống nhân gian để trị quốc an dân, vậy mà cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là tối quan trọng của người dân. Thời hiện đại, công pháp quốc tế đã nêu ba yếu tố chính hình thành một quốc gia: người dân, lãnh thổ và chính quyền. Trong đó, thật ra người dân chính là yếu tố then chốt quyết định. Lãnh thổ nếu không có dân ở, không có người quản trị thì không phải là đất nước của một dân tộc. Chính quyền từ người dân mà ra, bởi vì trước khi một người ra nắm quyền cai trị đất nước thì người đó phải là một người dân của đất nước ấy. Hơn nữa, sự thịnh suy của một quốc gia nằm trong tay người dân.
“Phản động lực” mà người Đài Loan thể hiện trong cuộc bầu cử tổng thống vừa rồi khiến tôi, sau những suy nghĩ miên man về chuyện nước non, lại quay về với bài học yêu nước của thời tiểu học với câu hỏi khó, khiến nhiều học trò gác bút: “Em hãy tìm từ phản nghĩa với ‘tôn đại’.” Trung Quốc càng hung hăng đe dọa bao nhiêu, Đài Loan càng quật cường ngạo nghễ bấy nhiêu. Mà nếu Bắc Kinh ngu ngơ hay vờ vịt không biết gì đến định luật này thì, thầy nào tớ đó, Hà Nội cũng mù tịt hay giả bộ tương tự. Họặc mù tịt như thể đã hoàn toàn miễn dịch trước luật này; hoặc đóng kịch như thể không hề sống trong không gian ba chiều bình thường mà là một môi trường nào đó thiêu thiếu, cơ hồ chỉ… hai chiều rưỡi.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.