Hôm nay,  

Trật tự thế giới

11/28/201518:04:00(View: 4705)
Trật tự thế giới

Đoàn Hưng Quốc

Trật tự thế giới (World Order) là tựa đề của một quyển sách xuất bản vào năm 2014 của Tiến Sĩ Henry Kissinger trong đó ông phân tích về tương quan giữa các nước nhìn từ mỗi phía Mỹ, Trung, Nga, Iran và Nhật, cùng những dị biệt trong thế giới quan đã ảnh hưởng đến chính sách ngoại giao của mỗi cường quốc như thế nào. Trong chương cuối tác giả đề cập đến khung cảnh toàn cầu hoá khi mà kỹ thuật điện toán và thông tin lan tràn khắp mọi nơi đã tác động mạnh mẽ đến dư luận, các nhà lãnh đạo và các quyết định chính trị đương thời. Phần trình bày dưới đây tóm tắt quyển sách nói trên nhưng thêm vào đó một số nhận xét riêng của người viết.


Theo TS Kissinger thì trật tự thế giới ngày nay đặt trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của mỗi quốc gia trên căn bản của các hiệp ước và tổ chức quốc tế. Tầm hiệu quả của những thỏa thuận và các cơ quan nói trên lại tùy thuộc nơi cán cân lực lượng giữa các nước lớn. Trật tự thế giới này do Tây Phương xây dựng từ sau Thế Chiến Thứ Hai dựa theo khuông mẫu của hòa ước Westphalian tại Âu Châu vào năm 1648. Để độc giả Á Châu dễ mường tượng ra mô hình Westphalian, giả sử nước Trung Hoa chia thành lục quốc từ thời Chiến Quốc kéo dài mãi cho đến ngày hôm nay vì nhà Tần đã không thống nhất được lục địa; chiến tranh triền miên cho đến khi sáu nước đều kiệt sức, cuối cùng phải ký kết một hoà ước dựa trên thế cân bằng lực lượng để không nước nào còn mưu toan thôn tính và thống lãnh toàn bộ, khi đó nền hoà bình tại Đông Á sẽ tương tợ kiểu mẫu Westphalian. Trở lại với thực tế lịch sử Âu Châu, mô hình Westphalian do ba nước lớn Anh-Pháp-Đức cân sức lẩn nhau để khi một quốc gia trong số này muốn bành trướng thì các nước còn lại liên minh chống trả, qua đó duy trì được trật tự và an ninh thường trực.


Khuôn mẫu Westphalian thành hình vì phù hợp với lịch sử và địa lý của Âu Châu, nay tuy được áp dụng như trật tự toàn cầu nhưng không phải lúc nào cũng được các nước lớn như Nga, Trung, Iran tôn trọng. Trái lại những cường quốc này muốn thay đổi mô hình nói trên ít nhất tại những vùng sân sau tức các lãnh thổ sát cạnh biên giới vốn bị xem thuộc về ảnh hưởng truyền thống của họ. Thế giới quan của mỗi nước lớn này được nhào nặng trong hoàn cảnh lịch sử và địa lý khác xa với Âu Châu. Người viết xin đưa ra một thí dụ so sánh Á-Âu: nhà Tần sở dĩ thống nhất được Trung Hoa một phần không ít nhờ vào vùng đồng bằng Trung Thổ mênh mông phù hợp cho vó ngựa chinh phục lục quốc, rồi sau đó nhà Hán tập trung và duy trì quyền lực nơi một chính quyền trung ương nhờ vào giao thông liên lạc thuận lợi. Trái lại Âu Châu bị núi non và sông ngòi ngăn chận nên một nhà nước trung ương dù được thành hình (như dưới thời vua Charlemagne) vẫn không thể tồn tại lâu dài do các phương tiện giao thông bị cách trở, cho nên khối Âu Châu đã không thể tập hợp thành một quốc gia lớn như nước Tàu ngày nay.


Trở lại với tác phẩm, nước Tàu thống nhất 200 năm trước Công Nguyên xây dựng một nền văn minh đồ sộ và lâu đời nhất trong lịch sử nhân loại; tự đặt tên Trung Quốc như một trung tâm văn hóa và quyền lực độc tôn trong khi các lân bang như Miến, Lào, Việt, Nhật, Hàn… chỉ là chư hầu (satellite nations) man di mọi rợ. Mô hình tập quyền này kéo dài hàng ngàn năm và rất khác biệt với khuông mẫu phân quyền Westphalian của Tây Phương.


Bên cạnh đó, lịch sử của Âu Châu mang đến ý tưởng phân chia giữa nhà nước và giáo quyền. Ngược lại Hồi giáo ra đời vào thế kỷ thứ 6 nhanh chóng chinh phục các vùng lãnh thổ rộng lớn ở Trung Đông, Bắc Phi, Nam Á và Trung Á. Trong đạo Hồi không phân biệt giữa chính quyền và giáo hội vì cả hai đều là công cụ truyền giảng lời dạy của Đấng Tạo Hóa. Kinh Koran có giá trị tuyệt đối vừa là Hiến Pháp, Luật Pháp và đức tin theo đó mọi tín đồ chỉ có một trách nhiệm duy nhất là chinh phục thế giới và cải tạo người ngoại đạo. Hai thế giới quan đối lập giữa Tây Phương và Hồi Giáo mang đến nhiều hệ lụy thực tế, tác giả đưa ra các trường hợp khi Tây Phương thương thuyết để tìm một giải pháp hòa bình và thăng bằng nhằm giúp các bên tranh chấp có thể tồn tại lâu dài với nhau thì ngược lại Hồi Giáo xem các thỏa ước chỉ là bước tạm dừng để sau đó tiếp tục tiến đến mục tiêu tối hậu khi hoàn cảnh cho phép nhằm tiêu diệt đối phương.


Nước Nga rộng lớn, thưa dân với khí hậu vô cùng nghiệt ngã nên chỉ tồn tại khi có một chính quyền trung ương khắc nghiệt và quyết đoán. Trong lịch sử Nga hai lần là nạn nhân của Âu Châu vì phải gánh chịu những tổn thất kinh hoàng khi bị Napoleon và Hitler xâm lăng; nhưng đồng thời Nga lại là cứu tinh của Âu Châu vì đều đánh bại hai nhà độc tài này để tạo cơ hội cho Âu Châu hồi sinh. Nền văn minh Tây Phương không chinh phục nổi mảnh đất băng giá mênh mông nên người Nga bị Âu Châu xem như kém văn hoá, nhưng kèm theo đó là nổi nghi kỵ sợ hãi vì quân đội Nga dù thô bạo và thô thiển nhưng lại hai lần tiến vào các thủ đô ánh sáng Paris và Berlin. Sau đó trong Chiến Tranh Lạnh Nga lại là mối đe dọa hủy diệt toàn bộ Tây Âu. Ngược lại Nga rút tỉa bài học rằng mô hình trật tự phân quyền theo kiểu Âu Châu chính là mầm móng cho sự yếu đuối và cơ hội để các nhà độc tài – và hôm nay, cho khủng bố Hồi giáo - trổi dậy đe dọa toàn lục địa và cả nước Nga, nên Mạc Tư Khoa phải triệt để ngăn chận hai thế lực, một nhằm khiến nhà nước trung ương của Nga suy yếu và hai để xâm lấn tiến gần đến biên giới quốc gia. Thế giới quan vốn được nhào nặng từ trong lịch sử vô cùng tương phản khiến người Nga phẩn nộ vì sao mỗi lần cứu nguy Âu Châu thì Âu Châu lại quay lưng trở thành thù nghịch, cho nên Mạc Tư Khoa quyết tâm phải tạo ra một vùng trái độn nhằm ngăn ngừa hiểm hoạ từ Tây Phương như đã nhiều lần xảy ra trong quá khứ.  


Nhật thường bị đánh giá như một quốc gia hải đảo cô lập và bảo thủ, nhưng trong thực tế Nhật đã hai lần trở thành đại cường nhờ vào chính sách khôn ngoan và vô cùng linh hoạt, có thể thay đổi trong khoảng khắc nên không thể tìm thấy nơi quốc gia nào khác. Vào thế kỷ thứ 17 Nhật là nước đầu tiên du nhập nền văn minh cơ giới của Tây Phương để trở nên hùng mạnh nhất châu Á. Sau khi thua Chiến Tranh Thứ Hai trong hoàn cảnh đất nước tan nát Nhật lại dứt khoát đặt mình dưới sự bảo trợ của của cựu thù Hoa Kỳ, theo đuổi chính sách hiếu hòa từ đó hồi sinh trở thành đại cường kinh tế. Qua hai bài học này khiến Tiến Sĩ Kissinger dự đoán Tokyo sẽ chọn lựa chính sách ngoại giao nào có lợi nhất cho Nhật dựa trên các phân tích về tương quan chiến lược mà không bị gò bó trong một hệ thống, các hiệp ước hay những bảo đảm nào từ bên ngoài.


Hoa Kỳ tự xem như một quốc gia ngoại hạng (exeptional). Người Mỹ quan niệm rằng nền hoà bình đặt trên cán cân lực lượng theo kiểu Westphalian chưa đủ vì đã hai lần sụp đổ qua thế chiến thứ nhất và thứ hai, mà phải kèm thêm hai yếu tố dân chủ và thương mại được tự do phát triễn trong một trật tự thế giới mà Hoa Kỳ góp phần xây dựng. Hoa Kỳ mang trách nhiệm phải duy trì nền trật tự này với các tổ chức như Liên Hiệp Quốc, IMF, World Bank, qua những hiệp ước trao đổi mậu dịch tự do, và nếu cần bằng sức mạnh quân sự áp đảo. Trong thực tế Mỹ phạm quá nhiều sai lầm, nhưng bù lại đã góp phần quyết định cho sự thành hình các khu vực an ninh, thịnh vượng và dân chủ tại Tây Âu, Nhật Bản, Nam Hàn. Nước Mỹ dù được ngưỡng mộ hay bị thù ghét nhưng vẫn là nguồn hy vọng dân chủ tự do của không ít người trên thế giới ngay cả khi chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ bị mâu thuẩn giữa lý tưởng dân chủ và quyền lợi thực tế. Người Mỹ cho rằng hai khái niệm dân chủ tự do nằm trong tế bào DNA của họ nên ngày nào Hoa Kỳ chọn không còn lãnh đạo thế giới (to lead) nước Mỹ sẽ tự đánh mất bản chất ngoại hạn của mình.


Trong chương cuối tác giả phân tích về khung cảnh toàn cầu hoá khi các phương tiện truyền thông đã nhanh chóng tạo ra dư luận áp lực lên những nhà lãnh đạo khiến những người hoạch định chiến lược trở nên bị động trước các biến cố thời sự mà không thể hoạch định kế hoạch lâu dài. Thông tin tuy mang nhân loại gần lại với nhau nhưng nhanh chóng khích động tâm lý cực đoan nhất là khi thế giới quan đã bị nhào nặng từ trong lịch sử với chủ nghĩa dân tộc nước lớn.


Các phân tích của TS Kissinger về thế giới quan và quan điểm chiến lược giữa những nước lớn có giá trị khi họ đối thoại với nhau. Tuy nhiên đối với các nước nhỏ như Việt Nam, Ukraine, Georgia,… lại có cái nhìn rất đơn giản là cá lớn nuốt cá bé dù ngụy trang dưới màu sắc dân tộc hay tôn giáo, cho nên chúng ta không thể nào chấp nhận các loại trật tự quái quắt từ cổ đại nào theo kiểu Tập Cận Bình và Trung Quốc đang cố rao giảng khắp thế giới về biển Đông.


Trước kia khi giao thông còn khó khăn thì các nước nhỏ đều chịu ảnh hưởng độc nhất nơi nền văn hoá của những cường quốc láng giềng. Ngày nay khi truyền thông liên lạc dễ dàng thì dân nước nhỏ có cơ hội hấp thụ những nền văn minh ở xa, chẳng hạn như tại Việt Nam các khái niệm như tự do, dân chủ, bình đẳng trong giới tính và trước pháp luật … vốn không hề có trong Khổng Giáo nhưng nay được du nhập và chấp nhận rộng rãi trong xã hội. Cho nên cách nhìn và mối tương quan truyền thống giữa đại quốc và chư hầu đã lổi thời, nếu có vực dậy cũng chỉ do nước lớn khích động tình tự dân tộc nhằm âm mưu lấn ép lân bang.  






.
.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Nỗi buồn tận huyệt của những đầu óc cải cách lớn nhất của dân tộc cũng giống như nỗi lòng của người mẹ khi thấy đàn con ngày càng suy kiệt. Mà những thách thức họ từng đối phó cũng chính là chướng ngại của người mẹ vì sự nhỏ nhen, ghen tuông của những thứ “cha/dượng” nhỏ nhen, thậm chí chỉ đơn thuần là thứ tiểu nhân mơ làm cha, làm dượng.
Nhà báo thạo tin nội bộ đảng CSVN. Huy Đức (Trương Huy San, Osin Huy Đức) và Luật sư Trần Đình Triển, chuyên bênh vực Dân oan bị bắt tạm giam, theo tin chính thức của nhà nước CSVN ngày 07/06/2024...
Quý vị nghĩ sao nếu có người nói với quý vị rằng chính phủ và giới truyền thông Hoa Kỳ đang bị kiểm soát bởi một băng nhóm bí mật, nhóm người này tôn thờ ma quỷ và đứng sau hàng loạt các vụ bắt cóc trẻ em? Theo một cuộc khảo sát gần đây, 17% người dân Hoa Kỳ tin rằng thuyết âm mưu này là có thật.
Ngày 30 tháng 5, một bồi thẩm đoàn ở New York kết luận, cựu Tống thống Donald Trump phạm tất cả 34 tội danh. Đây là một sự kiện chưa từng xảy ra trong lịch sử nước Mỹ, khi lần đầu tiên một cựu tổng thống bị tuyên án nhiều tội đại hình trong một vụ án hình sự. Ông Trump bị kết tội làm làm giả hồ sơ kinh doanh để che giấu các khoản khoản thanh toán tiền bịt miệng cho cựu ngôi sao phim khiêu dâm Stormy Daniels, nhằm mục đích ém nhẹm các thông tin bất lợi trước cuộc bầu cử năm 2016, để cử tri bỏ phiếu cho ông ta.
Hôm rồi, cháu Út hỏi: Người mình hay nói “phải sống đàng hoàng tử tế”. Thế nào là “đàng hoàng”, hả bố ? Tôi lúng túng không biết trả lời sao cho gọn gàng và dễ hiểu nên đành phải kể lại cho con nghe mẩu chuyện ngăn ngắn, của một nhà báo lẫy lừng (Anh Ba Sàm) đọc được qua Thông Tấn Xã Vỉa Hè: “Sau 1975, có những thứ mà Sài Gòn, miền Nam làm cho hắn rất lạ và không thể quên. Một đêm, chạy xe máy về nhà (ông cậu), tới ngã tư đèn đỏ, ngó hai bên đường vắng hoe, hắn rồ ga tính vọt thẳng. Bất ngờ nghe bên tai tiếng thắng xe cái rẹc, liếc qua thấy ông lão với chiếc xích lô trống không. Quê quá, phải dừng theo!”
Nếu cái gì cũng có bước khởi đầu của nó thì -- ngoài công việc thường ngày là quan sát hành động của từng con người để có một phán xét cuối cùng vào thời điểm thích hợp -- đâu là việc làm đầu tiên của Thượng Đế? Câu trả lời, theo một câu chuyện chỉ để cười chơi, rất thích hợp với bộ máy chuyên tạo nên cảnh rối ren hỗn loạn trên đất nước chúng ta. Cái câu chuyện về một cảnh trà dư tửu hậu khi những nhà chức nghiệp cãi nhau rằng nghề của ai có trước, dựa trên những tín lý từ bộ kinh Cựu Uớc, đặc biệt là chương Sáng Thế Ký.
Đảng CSVN có nhiều chứng bệnh lây nhiễm trong thời kỳ “đổi mới” như tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm và chia rẽ, nhưng 3 chứng “nhận vơ”, “lười lao động” và “lười làm việc” của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên đã khiến Đảng lo sợ.
Bất ngờ sáng 30/05/24, TT Biden tuyên bố bỏ giới hạn sử dụng võ khí của Huê Kỳ cung cấp cho Ukraine đánh Nga. Đồng thời, Âu châu đã thỏa thuận một quyết định mới quan trọng là bỏ giới hạn đỏ, gởi huấn luyện viên quân sự qua Ukraine giúp quân đội Ukraine, cho phép Ukraine sử dụng các loại võ khí mạnh và có tầm hoạt động xa tới lãnh thổ Nga nhằm những mục tiêu quân sự. Riêng Anh đã bước tới trước, một số quân đội Anh đang hoạt động tại Ukraine.
“Que Sera Sera,” ca khúc này luôn gắn bó với tâm tư của cậu bé bảy tuổi. Đi xem xi-nê với mẹ, sau này mới biết là phim The Man Who Knew Too Much, về nhà tôi nhớ mãi cái giai điệu vui tươi và đôi môi nhảy múa, khi nữ diễn viên hát đoạn que sera sera. “Chuyện gì đến sẽ đến,” một câu nói đầy thơ mộng đối với cậu bé, rồi dần dần lớn lên biến thành câu nói chấp nhận chuyện ngày mai ‘Life is a crazy ride, and nothing is guaranteed. (Đời là chuyến đi điên rồ, không có gì bảo đảm. ‘Eminem’.) Dường như, có một chút bất cần, không quan tâm chuyện gì sẽ xảy đến. Tưởng chỉ là như vậy, ai ngờ, câu nói bỗng đứng dựng lên, lớn tiếng hỏi: “Chuyện gì đến sẽ đến là sao?” Đúng, “sẽ đến” thuộc về tương lai, thuộc về bí mật, nhưng “chuyện gì đến,” một phần đã bị khám phá, tìm thấy, công bố. Chúng ta, con người hiện tại, thế kỷ 21, may mắn có một khoa học khá trung thực và năng nổ, mở ra cho sự hiểu biết còn kém cỏi, nhiều nơi quá khứ còn tối tăm và nhiều nơi chờ ánh sánh rọi tới.
Người Việt rất hay buồn. Họ buồn đủ chuyện, đủ thứ, đủ cách, đủ kiểu, đủ loại và buồn dài dài: buồn chồng, buồn vợ, buồn con, buồn chuyện gia đình, buồn chuyện nước non, buồn chuyện tình duyên, buồn trong kỷ niệm, buồn tình đời, buồn nhân tình thế thái, buồn thế sự đảo điên, buồn tàn thu, buồn tàn canh gió lạnh … Đó là chưa kể những nỗi buồn buồn lãng xẹt: buồn trông con nhện giăng tơ, buồn trông cửa bể chiều hôm, buồn trông nội cỏ rầu rầu, buồn trông con nước mới sa …
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.